GIÁO LÝ THÁNH KINH BÀI 21
(Lc 14,1-35)
Câu 1: Lu-ca chương 14 bao gồm những phần nào?
Thưa: Trong chương này, tác giả đã kết hợp khéo léo các sự kiện thực tế với các dụ ngôn và lời dạy của Đức Giê-su để làm nổi bật những bài học tâm linh và áp dụng chúng vào đời sống. Chương này bao gồm 5 phân đoạn sau:
Câu 2: Nội dung chính của chương này là gì?
Thưa: Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chương này là lời mời gọi theo Đức Giê-su và sống theo tinh thần của Nước Thiên Chúa, nhấn mạnh vào sự khiêm nhường, lòng thương xót, và sự hy sinh và dấn thân toàn diện để trở thành môn đệ đích thực.
Câu 3: Câu chuyện Đức Giê-su chữa người bị phù thũng xảy ra thế nào? (Lc 14,1-6)
Thưa: Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. 2Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng. 3Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: “Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không?” 4Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. 5Rồi Người nói với họ: “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?” 6Và họ không thể đáp lại những lời đó.
Câu 4: Những kẻ đối nghịch với Đức Giê-su có thái độ thế nào đối với việc chữa bệnh trong ngày sa-bát?
Thưa: Đối với họ, đó là việc cấm làm trong ngày sa-bát, nên họ cố dò xét xem Đức Giê-su có chữa bệnh trong ngày sa-bát hay không. Nhưng khi Đức Giê-su hỏi: “Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không”, họ lại làm thinh vì không biết trả lời thế nào.
Câu 5: Thái độ của Đức Giê-su thế nào?
Thưa: Đức Giê-su biết rằng việc Ngài chữa bệnh cho dân hợp với mục đích của việc nghỉ ngày sa-bát - để bồi bổ và chữa lành tâm hồn và thể xác con người - nên Ngài đã chữa bệnh trong ngày sa-bát. Khi làm việc này, Đức Giê-su khẳng định rằng tình yêu, lòng thương xót, làm điều thiện và cứu giúp con người phải luôn được ưu tiên hơn việc tuân thủ luật lệ một cách máy móc.
Câu 6: Khi thấy những người được mời dự tiệc chọn chỗ nhất, Đức Giê-su đã dạy điều gì?
Thưa: Thấy vậy, Người nói với họ dụ ngôn này: 8“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, 9và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống chỗ cuối. 10Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. 11 Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Câu 7: Qua những lời đó, Chúa Giê-su muốn dạy người nghe bài học nào?
Thưa: Qua đó, Chúa muốn đề cao sự khiêm nhường: đặt Thiên Chúa và tha nhân lên trên bản thân mình. Như vậy, khiêm nhường là cánh cửa mở ra để đón nhận ân sủng và sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Đây cũng là nhân đức thúc đẩy chúng ta phục vụ người khác một cách khiêm tốn và quên mình như Đức Giê-su.
Câu 8: Sau đó, Đức Giê-su nói gì với ông chủ tiệc?
Thưa: Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
Câu 9: Tại sao Đức Giê-su lại có lời khuyên như vậy?
Thưa: Chính Người đã giải thích rằng khi chúng ta quảng đại mời những người người không thể đền đáp lại thì chúng ta được chính Thiên Chúa là cha rất quảng đại ân thưởng trong ngày sau hết. Thêm vào đó, hành động mời những người nghèo khó thể hiện tình yêu vô vị lợi và sự ưu tiên của Thiên Chúa dành cho những người bé mọn, bị bỏ rơi trong Nước Ngài.
Câu 10: Khi một người nói: “Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa,” Đức Giê-su đã làm gì?
Thưa: Người đáp lại bằng cách kể một dụ ngôn như sau: “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. 17Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: ‘Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn.’ 18Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: ‘Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu.’ 19Người khác nói: ‘Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu.’ 20Người khác nói: ‘Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được.’ 21“Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: ‘Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây.’ 22Đầy tớ nói: ‘Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ.’ 23Ông chủ bảo người đầy tớ: ‘Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. 24Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi.’”
Câu 11: Dụ ngôn trên nói gì về lời mời gọi của Thiên Chúa và sự đáp trả của con người?
Thưa: Dụ ngôn này cho thấy lời mời gọi vào Nước Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người; nhưng nhiều người, trong đó có những người Do-thái xưa kia, lại từ chối vì quá bận tâm đến những lợi ích trần thế. Thiên Chúa mở rộng lời mời đến những người bị xã hội coi thường (người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt), cho thấy lòng thương xót vô biên và sự ưu tiên của Ngài đối với những tâm hồn khiêm tốn. Dụ ngôn trên cũng nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
Câu 12: Đức Giê-su nói gì với những người muốn đi theo Người (Lc 14,25-33)?
Thưa: Trong đoạn này, Chúa Giê-su dạy rằng người môn đệ phải đặt Ngài là ưu tiên hàng đầu, phải trả giá đắt và hy sinh từ bỏ triệt để nếu muốn đi theo Người. Người nói, 26“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Hai ví dụ về người xây tháp và vị vua đi giao chiến dạy phải suy nghĩ kỹ lưỡng về những gì họ sẽ phải đối mặt và cam kết dấn thân cũng như yêu cầu “bỏ hết những gì mình có” (Lc 14, 28-33) cũng nằm trong các yêu cầu triệt để của việc làm môn đệ của Ngài.
Câu 13: Đức Giê-su còn nói gì thêm về các môn đệ (Lc 14,34-35)?
Thưa: Chúa Giê-su sử dụng hình ảnh muối để mô tả phẩm chất cần có của môn đệ. Họ phải duy trì "vị mặn" tức là sự trung thành, nhiệt thành, và khác biệt so với thế gian. Nếu môn đệ không sống đúng với cam kết, họ trở nên vô dụng, không thể hoàn thành mục đích của mình. Khi nói điều này, Đức Giê-su cảnh báo nguy cơ thoái hoá, mất đi bản chất của người môn đệ.
BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN GPTB
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về Giáo Phận Thái Bình
Đang online: 38 | Tổng lượt truy cập: 6,767,779