GIÁO PHẬN THÁI BÌNH
BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I
DÀNH CHO LỚP HUẤN LUYỆN GIÁO LÝ VIÊN CẤP III
PHẦN I: LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO
Bài 1
TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
(x. SGLC từ 1730 đến 1748).
Câu 1: Tự do là gì?
Tự do là khả năng hành động hoặc không hành động, làm cái này hay làm cái kia, chọn lựa sự thiện hoặc sự ác, tăng trưởng tới toàn thiện hoặc suy sụp trong tội lỗi.
Tự do là nguồn mạch sinh ra khen thưởng hoặc quở phạt, có công hay đáng tội. Khi chọn bất tùng phục hoặc chọn sự ác là ta lạm dụng tự do, và làm cho mình "nô lệ tội lỗi". Trái lại, khi ta càng làm điều thiện, ta càng tự do hơn.
Câu 2: Thế nào là Tự do đích thực?
Con người chỉ tự do đích thực khi phục vụ điều thiện và sự công chính; và tự do ấy chỉ đạt tới hoàn hảo khi họ tìm kiếm Đấng Tạo Hóa và tự nguyện gắn bó với Người, nhờ đó họ đạt tới hạnh phúc thật.
Câu 3: Trách nhiệm là gì?
Khi con người đã suy nghĩ và chủ ý hành động một cách tự do thì con người bị ràng buộc với hành động đó, nghĩa là phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Tất cả mọi hành động do con người đã trực tiếp muốn thì trách nhiệm qui về họ.
Trách nhiệm này có thể giảm bớt thậm chí có thể không còn nữa, do họ đã không hiểu biết, hoặc do vô tình mà làm, do bị bạo lực hay bị sợ hãi, do quá quen hoặc do cảm xúc quá mạnh, do các nhân tố tâm thần hoặc xã hội khác...
Câu 4: Tự do và Trách nhiệm có liên hệ với nhau như thế nào?
Khi con người đã suy nghĩ và chủ ý hành động một cách tự do thì con người bị ràng buộc với hành động đó, nghĩa là phải chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Khi mỗi người hành xử quyền tự do của mình là phải hành xử trong tôn trọng quyền hành xử tự do của người khác.
Quyền hành xử tự do là một đòi hỏi không thể tách rời khỏi phẩm giá con người, nhất là trong vấn đề luân lý và tôn giáo. Quyền đó đòi dân luật phải công nhận cũng như bảo vệ trong những gì liên quan đến công ích và trật tự công cộng.
Con người có trách nhiệm về tự do của mình và tôn trọng tự do chính đáng của người khác.
Câu 5: Tự do và Tội lỗi có liên hệ với nhau như thế nào?
Vì có ý chí tự do nên mỗi người phải tự quyết định về chính mình. Tuy nhiên tự do của con người chỉ có giới hạn và dễ lầm lẫn. Mà sự thực là họ đã lầm lẫn đã tự ý phạm tội, đã tự dối mình để chối bỏ dự án yêu thương của Thiên Chúa, và trở thành nô lệ tội lỗi.
Việc con người sử dụng sai tự do của mình lúc ban đầu đã sinh ra muôn ngàn sai lầm khác khiến "từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp... " (Mc 7,21,23) gây nên bao điều bất hạnh và áp bức suốt dòng lịch sử.
Tự do của con người chỉ giới hạn nghĩa là họ không có quyền nói và làm bất cứ điều gì. Do đó, thật là sai lầm khi "con người tự coi mình được làm chủ tự do của mình, được tự túc để thỏa mãn tư lợi trong việc hưởng thụ của cải trần gian" (Thánh bộ Đức Tin).
Câu 6: Ân sủng là gì?
Ân sủng là những khả năng và phương tiện Chúa Ki-tô ban cho chúng ta, giúp chúng ta đạt được ơn cứu độ.
Ân sủng là “một hồng ân, một sự trợ giúp cho không mà Thiên Chúa ban, để chúng ta đáp lại tiếng gọi của Ngài, là trở thành con cái Thiên Chúa” (GLHTCG số 1996).
“Ân sủng của Đức Kitô là một hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa ban, làm cho chúng ta được dự phần sự sống của Ngài” (số 1999),
Ngoài ra, ân sủng cũng có nghĩa là lòng nhân hậu, sự trợ giúp, ơn giải thoát. Tất cả những điều này được hứa ban cho chúng ta cách phong phú, dư đầy, không phải vì công lao chúng ta. Và không chỉ được hứa nhưng Thiên Chúa đã thật sự ban cho chúng ta như một quà tặng.
Câu 7: Tự do và Ân sủng có liên hệ với nhau như thế nào?
Ân sủng không tước đoạt tự do của chúng ta hoặc biến ta thành những con rối. Đúng hơn, ân sủng làm cho chúng ta thành những người cộng tác với Thiên Chúa, bằng cách tự do và vui tươi đáp lại những hướng dẫn và thúc đẩy nhẹ nhàng của Thánh Thần (số 2002).
Ân sủng còn tác động lên cả ý muốn của chúng ta như thánh Phaolô nói: “Chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Ngài” (Phil 2,13).
Câu 8: làm thế nào để có được tự do của con cái Thiên Chúa?
Ơn gọi của ta là trở nên nghĩa tử của Chúa Cha, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô "Đấng đã giải thoát chúng ta để chúng ta được tự do" (Gl 5,1). Do đó ta có bổn phận tự nguyện đáp trả ơn gọi ấy bằng cách luôn chiến đấu để đạt tới "tự do của con cái Thiên Chúa" (Rm 8,21).
Bài 2:
Lương tâm
(x. SGLC từ 1776 đến 1802).
Câu 9: lương tâm là gì?
Lương tâm là một tiếng nói, một lề luật được Thiên Chúa đặt để nơi đáy lòng con người (cho dù có niềm tin tôn giáo hay không) luôn nhắc nhở mình phải tuân theo. Tiếng nói ấy vang lên rất đúng lúc, kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác.
Khi nghe theo tiếng lương tâm, ta có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với mình, và nhờ phán quyết của lương tâm, ta ý thức và nhận ra những quy luật của Thiên Chúa.
Câu 10: Ta phải làm thế nào để có thể nghe được tiếng lương tâm?
Để có thể nghe được và tuân theo tiếng lương tâm, cần phải lắng đọng tâm hồn và nhìn vào phía bên trong.
Tập thói quen trở về với chính mình trong thinh lặng và suy niệm; nhờ đó có thể gặp gỡ Chúa là Đấng ở trong ta còn sâu hơn chính ta (Âu tinh).
Câu 11: Lương tâm có thể bị sai lầm không?
Mặc dù được Thiên Chúa đặt để nơi đáy lòng con người, tuy nhiên lương tâm ấy vẫn có thể bị biến chất do những điều kiện sống chung quanh. Vì thế, cần phải huấn luyện lương tâm, để có thể phán đoán ngay thẳng và chân thật.
Câu 12: Lương tâm ngay thẳng bao gồm những gì?
Lương tâm ngay thẳng gồm ba yếu tố:
Câu 13: Ta phải làm thế nào để huấn luyện lương tâm?
Huấn luyện lương tâm là nhiệm vụ phải thực hiện suốt đời. Công việc ấy phải được bắt đầu từ thuở ấu thơ, vì đây là giai đoạn rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách.
Được huấn luyện tốt, lương tâm sẽ trở thành tấm bảng chỉ đường quý giá, dẫn con người đến tự do đích thực, và mang lại sự bình an cho tâm hồn.
Trong việc huấn luyện lương tâm, Lời Chúa đóng vai trò rất quan trọng. Vì lương tâm chính là Lời của Chúa Kitô ở mức độ khởi đầu; cho nên nhờ ánh sáng Lời Chúa, lương tâm sẽ đạt đến sự phát triển trọn vẹn.
Câu 14: Đâu là những lý do dẫn đến việc đưa ra phán đoán nghịch lại với lương tâm?
Có những lý do sau đây:
Thông thường, mỗi người phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hiểu biết của mình, nhất là khi họ "không lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, hoặc vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng" (x.MV 16).
Tuy nhiên nếu không thể khắc phục tình trạng thiếu hiểu biết hoặc phán đoán sai lầm không phải do bản thân mình, thì người đó không phải chịu trách nhiệm về điều xấu đã làm.
Câu 15: Làm sao để có thể lựa chọn đúng theo lương tâm ngay thẳng?
Để có thể chọn lựa đúng đắn theo lương tâm ngay thẳng, ta phải dựa vào đức khôn ngoan, lời khuyên bảo của những người hiểu biết cũng như sự trợ lực của Chúa Thánh Thần.
Câu 16: Đâu là những nguyên tắc có thể áp dụng trong việc lựa chọn theo tiếng lương tâm?
Bài 3
Tội Lỗi
(x. SGLC từ 1846 đến 1876).
Câu 17: Tội lỗi là gì?
Tội là sự xúc phạm đến chính Thiên Chúa, là chống lại tình yêu Thiên Chúa dành cho ta, là yêu mình đến độ khinh thị Thiên Chúa.
Câu 18: Khi con người phạm tội, Thiên Chúa còn tiếp tục yêu thương con người nữa không?
Cho dẫu con người tội lỗi, Thiên Chúa vẫn thương xót con người. Không những tha thứ tội lỗi cho con người, Ngài con ban chính Đức Giê-su – Người Con Một yêu dấu của mình cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…”
Câu 19: Tại sao nói: “Đức Giê-su là hiện thân của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”?
Thưa, vì suốt cuộc sống công khai, Đức Giêsu không ngừng rao giảng lòng thương xót của Thiên Chúa và ban ơn tha thứ cho tội nhân. Tuy nhiên, chính trong cuộc khổ nạn mà tấm lòng của Thiên Chúa được bày tỏ cách trọn vẹn. Ở đó, tội lỗi bộc lộ tính hung bạo và đa dạng của nó: sự cứng lòng và thái độ thù hận của các thủ lãnh và dân chúng, sự hèn nhát của Philatô và độc ác của quân lính, sự phản bội của Giuđa và sự chối bỏ của Phêrô, cũng như thái độ bỏ rơi của các môn đệ. Nhưng cũng chính vào giờ tối tăm ấy, Chúa Kitô đã tự hiến và âm thầm trở nên nguồn mạch vô tận thông ban ơn tha tội cho chúng ta.
Câu 20: Hãy kể ra những hình thái của tội?
Tội lỗi rất đa dạng. Trong thư Rôma, Thánh Phaolô đã liệt kê các thứ tội "Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác như vậy" (1,28-32).
Câu 21: Dựa vào đâu để người ta phân biệt mức độ của tội?
Thông thường người ta phân biệt tội theo đối tượng, nghĩa là dựa vào các điều răn mà tội nhân vi phạm. Cũng có thể phân biệt tội dựa vào tương quan của ta với Thiên Chúa, với tha nhân hoặc với chính bản thân.
Tuy nhiên, nguồn gốc sâu xa của mọi tội lỗi là chính lòng người: "Vì tự lòng xuất phát những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó chính là những cái làm cho con người ra ô uế" (Mt 15,19-20).
Câu 22: “Tội trọng” là gì?
Một tội được coi là trọng khi hội đủ ba yếu tố: Phạm một lỗi nặng, có ý thức đầy đủ và cố tình.
Câu 23: Dựa vào đâu để biết được đó là “lỗi nặng?
Lỗi nặng được xác định trong Mười điều răn và Đức Giêsu lập lại: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ (x. Mc 10,14).
Giữa các tội này, có tội nặng hơn và tội nhẹ hơn. Mức độ tội lỗi cũng tùy thuộc vào tương quan của tội nhân với phẩm giá của người bị xúc phạm. Vd: Nếu hành hung cha mẹ thì nặng tội hơn hành hung người lạ.
Câu 24: Như thế nào được gọi là “Có ý thức đầy đủ”?
Có ý thức đầy đủ là biết hành vi đó là tội, trái với luật Thiên Chúa. Nếu thiếu hiểu biết ngoài ý muốn, tội nhân có thể được giảm hoặc miễn trách nhiệm. Nhưng không ai được coi là không biết đến những nguyên tắc của luân lý đã được ghi khắc trong lương tâm của mỗi người.
Câu 25: Như thế nào được gọi là “cố tình”?
Cố tình là đã biết, suy nghĩ cặn kẽ và ưng thuận. Nó trở thành một lựa chọn cá nhân, và tội nhân phải chịu trách nhiệm về lựa chọn của mình.
Câu 26: “Tội trọng” mang lại những hậu quả nào?
Khi phạm tội trọng, con người đánh mất đức mến, tự tước bỏ ơn thánh hóa, tức là tình trạng ân sủng và phần rỗi đời đời bị đe dọa. Tuy nhiên quyền phán xét một con người là quyền thuộc về Thiên Chúa, Đấng công minh và cũng là Đấng giàu lòng xót thương.
Câu 27: “Tội nhẹ” là gì?
Chúng ta phạm tội nhẹ khi vi phạm luật luân lý trong điều nhẹ, hay lỗi điều nặng nhưng không hoàn toàn hiểu biết hoặc ưng thuận.
Câu 28: “Tội nhẹ” mang lại những hậu quả nào?
Tội nhẹ không làm mất ơn thánh hóa, cũng không làm mất phúc thật vĩnh cửu. Tuy nhiên, tội nhẹ làm suy yếu Đức Ái, ngăn cản ta tiến triển trong cuộc thực hành các đức tính và điều thiện. Đồng thời, người cố tình phạm tội nhẹ và không sám hối, sẽ đi dần đến chỗ phạm tội trọng và ảnh hưởng đến phần rỗi đời đời.
Câu 29: “Tội phạm đến Thánh Thần” là gì?
Tội phạm đến Thánh Thần là tội cố tình không hối cải và khước từ lòng thương xót của Thiên Chúa, vì thế cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Không phải là Thiên Chúa không tha thứ, nhưng chính tội nhân tự tách mình ra khỏi lòng thương xót của Ngài, và tự kết án chính mình.
Câu 30: “Thói xấu” là gì?
Thói xấu xuất hiện khi những hành vi xấu được lập đi lập lại nhiều lần. Hậu quả là con người nghiêng chiều về điều ác, lương tâm mờ tối và lệch lạc trong việc thẩm định giá trị luân lý.
Câu 31: Dựa vào đâu để xếp loại các thói xấu?
Có thể xếp loại các thói xấu dựa vào các nhân đức mà chúng đối nghịch, hoặc dựa vào bảy mối tội đầu: Kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, ghen ghét, hờn giận, mê ăn uống và lười biếng.
Câu 32: Thế nào được gọi là “Đồng lõa với tội lỗi”?
Tội là một hành vi cá nhân, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về tội của người khác, khi cộng tác với họ dưới nhiều hình thức: tham gia trực tiếp và cố tình; ra lệnh, xúi giục hoặc tán thành; không ngăn cản khi có bổn phận phải làm; bao che cho người làm điều ác.
Bài 4
ƠN CHÚA
(x. SGLC từ 1987 đến 2029)
Câu 33: Ân sủng là gì?
Là ân huệ nhưng không Chúa Cha trao ban để con người đáp lại tiếng mời gọi của Ngài là trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa và được dự phần vào bản tính thần linh.
Câu 34: Ơn Thường sủng là gì?
Là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta thường xuyên sống và hành động theo lời mời gọi của Thiên Chúa.
Sau khi lãnh nhận ơn này qua phép Rửa tội, ta có thể bị mất ơn này khi phạm tội, nhưng sẽ được lại khi ta sám hối và lãnh nhận bí tích Giải tội.
Câu 35: Ơn Hiện sủng là gì?
“Ơn Hiện sủng” cũng gọi là “Ơn Trợ giúp” là ơn ban trong hiện tại, khi cần thiết, tuỳ hoàn cảnh. Cả những người có tội đã mất Ơn Thường sủng cũng được thông ban Hiện sủng, để giúp họ nối lại tình nghĩa với Chúa.
Câu 36: Đặc sủng là gì?
Là những ơn đặc biệt, có khi ngoại thường (Ơn làm phép lạ, ơn nói tiếng lạ), nhưng luôn có mục đích phục vụ lợi ích chung, để xây dựng cộng đoàn Hội Thánh (Ơn chữa bệnh, Ơn nói tiên tri…)
Trong các Đặc sủng, phải nêu lên “Ơn chức phận”, được ban cho những người có trách nhiệm (cho các bậc cha mẹ), cho những thừa tác viên trong Hội Thánh (Những người có trách nhiệm làm thầy giảng dạy, phục vụ, khuyên bảo, chủ tọa …).
Câu 37: Ơn công chính hóa là gì?
Ơn công chính hóa là hồng ân Chúa ban, giúp chúng ta thông phần vào đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, và có khả năng hành động vì yêu mến Ngài.
Câu 38: Ơn công chính hóa mang lại cho ta những gì?
Ơn công chính hóa của Thiên Chúa đem lại cho chúng ta ba hiệu quả sau đây:
Câu 39: Công phúc (Công trạng) là gì?
Công phúc (Công trạng) là phần thưởng Chúa ban cho người thực hành nhân đức. Tuy nhiên, trước nhan Thiên Chúa, con người không có công trạng gì, vì con người đón nhận mọi sự từ Thiên Chúa và nếu có làm được gì thì cũng do ân sủng của Ngài (x. GLHTCG 2007).
Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, ta có thể lập công để xứng đáng nhận cho mình và cho những người khác các ân huệ có ích cho ta đạt tới sự sống vĩnh cửu, cũng như để lãnh nhận những ơn ích trần gian cần thiết như của cải, sức khỏe, tình bạn…
Câu 40: Để thực hiện lời mời gọi nên thánh, chúng ta phải làm gì?
Lời mời gọi nên thánh đòi hỏi người Ki-tô hữu phải cố gắng trong suốt cuộc đời, vì theo lời thánh Gregorio: “Sự toàn thiện Ki-tô giáo chỉ có một giới hạn, giới hạn đó không có một giới hạn nào hết”; đồng thời, lời Chúa mời gọi: “Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình ma theo” (Mt 16,24)
Bài 5
Điều răn I: Thờ phượng và Kính mến Thiên Chúa
(x. SGLC từ 2083 đến 2141)
Câu 41: Tại sao ta phải thờ phượng kính mến Thiên Chúa?
Đối với dân Ít-ra-en:
Vì Ngài là Đấng giải thoát dân khỏi ách nô lệ Ai-cập: "Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai Cập; khỏi cảnh nô lệ".
Vì Israen thuộc về Chúa, là dân của Chúa nên phải tôn thờ một mình Người: "Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ... anh em không được theo những thần khác" (Đnl 6,13-14).
Đối với con người:
Vì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người theo hình ảnh giống Thiên Chúa: "Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa, là Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi" (Lc 4,8).
Câu 42: Ta phải thờ phượng Thiên Chúa như thế nào?
Thờ phượng Thiên Chúa là nhìn nhận sự hư vô bất lực của mình, nên phải lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu chuộc duy nhất.
Đồng thời, thờ phượng còn là ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, chấp nhận thân phận hèn mọn với lòng tri ân và cảm tạ xưng tụng những kỳ công tuyệt vời của Chúa.
Câu 43: Đức Tin là gì?
Đức tin là một ơn Chúa ban để chúng ta tin rằng những gì Chúa tỏ ra cho chúng ta biết về Ngài và chương trình yêu thương của Ngài dành cho chúng ta là đúng.
Câu 44: Điều răn thứ Nhất đòi hỏi ta phải làm gì?
Điều răn thứ Nhất đòi hỏi ta phải giữ gìn, nuôi dưỡng đức tin và xa tránh những gì nguy hiểm cho đức tin.
Câu 45: Có những tội nào nghịch với Đức Tin?
– Lười biếng không chịu tìm hiểu, học hỏi giáo lý đức tin.
– Nghi ngờ các chân lý mặc khải trong Hội Thánh.
– Chối đạo, bỏ đạo, ly khai với Hội Thánh. (Rối đạo là chối bỏ hay nghi ngờ một chân lý phải tin. Bỏ đạo là hoàn toàn chối bỏ niềm tin Kitô giáo. Ly Giáo là từ chối không vâng phục Đức Giáo Hoàng hay từ chối hiệp thông với Hội Thánh).
Câu 46: Đức Cậy là gì?
Là tin tưởng và mong chờ phúc lành của Thiên Chúa ở đời này, và được hạnh phúc với Người ở đời sau.
Câu 47: Đâu là những tội nghịch với Đức Cậy?
Hai tội nghịch với đức trông cậy là tuyệt vọng và kiêu ngạo:
Tuyệt vọng là khi nghi ngờ và không còn tin tưởng vào lòng nhân từ và trung thành của Thiên Chúa, con người không còn mong đợi ơn tha thứ và ơn cứu độ của Thiên Chúa nữa.
Kiêu ngạo (Tự cao tự đại) là khi con người quá cậy tài sức của mình mà không cần ơn Chúa, hoặc khi quá cậy trông vào lòng nhân từ và quyền năng Thiên Chúa, mà không cần cộng tác bằng việc ăn năn hối cải, để được hưởng ơn cứu độ.
Câu 48: Đức Mến dạy chúng ta phải làm gì?
Dạy ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, mọi loài, và yêu mến chỉ vì chính Người mà thôi.
Câu 49: Đâu là những tội nghịch với Đức Mến?
Có những tội này:
- Một là: Dửng dưng là bỏ qua hoặc từ chối không công nhận tình yêu Thiên Chúa.
- Hai là: Vô ơn là không đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
- Ba là: Thờ ơ hay lười biếng trong các bổn phận đối với Chúa.
- Bốn là: Thù ghét, chống lại và nguyền rủa Thiên Chúa.
Câu 50: Ngoài 3 nhân đức đối thần, còn có hình thức nào khác để con người bày tỏ tâm tình thờ phượng nữa không?
Ngoài 3 nhân đức đối thần, còn có những hình thức khác như: Cầu nguyện, Lễ hy sinh và các lời khấn hứa.
Câu 51: Ngoài bổn phận đối với Thiên Chúa, người Ki-tô hữu còn có bổn phận nào với xã hội và quyền tự do tôn giáo?
Ngoài bổn phận đối với Thiên Chúa, người Ki-tô hữu còn phải:
Câu 52: Đâu là các tội nghịch với Điều răn thứ Nhất?
Điều răn thứ nhất cấm không được tôn thờ thần linh nào khác ngoài Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất. Điều răn này cũng cấm mọi hình thức mê tín dị đoan và tình trạng vô tôn giáo.
Câu 53: Dị đoan là gì?
Dị đoan là khi có sự lệch lạc trong tâm tình tôn giáo và những cách thể hiện tâm tình đó.
Câu 54: Tôn thờ ngẫu thần là gì?
Tôn thờ ngẫu thần là khi tôn thờ bất cứ tạo vật nào thay thế Thiên Chúa, hay ngang bằng Thiên Chúa. Điều răn thứ nhất lên án thuyết đa thần.
Câu 55: Bói toán và ma thuật là gì?
Bói toán và ma thuật là tất cả những hình thức bói toán nhằm biết vận mệnh tương lai, đều trái nghịch với lòng tôn kính và phó thác cho một mình Thiên Chúa. Những cách thực hành ma thuật hoặc phù thủy nhằm có một quyền hành bí ẩn đối với đồng loại, đều nghịch với đức thờ phượng.
Câu 56: Chúng ta có thể tôn kính ảnh tượng không?
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa cấm dùng bất cứ hình ảnh nào tượng trưng cho Thiên Chúa (x. Đnl 4, 15-15). Nhưng khi nhập thể, Con Thiên Chúa đã mang một hình hài thật sự. Do đó, việc tôn kính ảnh tượng của Kitô giáo không nghịch với điều răn thứ nhất.
Câu 57: Đâu là lý do người Công giáo có thể tự do tôn kính ảnh tượng?
Khi tôn kính ảnh tượng, ta không tôn kính chính ảnh tượng, mà là tôn kính chính Đấng có hình ảnh đó. Lời cầu nguyện khi làm phép ảnh tượng diễn tả tâm tình phải có: "Lạy Chúa, Chúa không chê bác việc tạc vẽ tượng ảnh của các Thánh Chúa, để mỗi lần con mắt thể xác chúng con chiêm ngưỡng ảnh tượng đó, thì con mắt ký ức cũng suy niệm hành vi và đời sống thánh thiện của các Đấng mà bắt chước".
Như thế, việc tôn kính ảnh tượng trở thành phương thế giúp cầu nguyện, sống mầu nhiệm hiệp thông các Thánh, và huấn luyện đời sống đức tin.
Bài 6
Điều răn II: Tôn kính Danh Thánh Chúa
(x. SGLC từ 2142 đến 2167)
Câu 58: Thiên Chúa đã mạc khải điều gì khi tỏ Danh của Ngài?
Khi mặc khải Danh thánh cho con người, Thiên Chúa mặc khải chính bản thân thánh thiện siêu việt của Người. Danh Người là Thánh (x. Lc 1,49) như chính Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Câu 59: Người tín hữu phải tôn kính Danh Chúa thế nào?
Người tín hữu phải tôn kính Danh Thánh Chúa, loan truyền và làm chứng danh thánh Chúa cho mọi người: "Chúng con nguyện danh Cha cả sáng".
Câu 60: Hành động nào được kể là xúc phạm Danh Thiên Chúa?
Khi kêu danh Chúa hoặc tên Đức Maria, các Thánh cách bất xứng, hoặc trong lúc tức giận, nhất là trong lúc chửi rủa.
Câu 61: Điều răn thứ Hai còn dạy ta điều gì?
Điều răn thứ Hai còn dạy ta phải tôn trọng những người, những nơi, và những vật đã được hiến dâng cho Chúa như các linh mục, tu sĩ, nhà thờ, đất thánh, ảnh tượng đã làm phép...
Câu 62: Tội phạm thánh là gì?
Là tội khinh dể hay xúc phạm đến Hội Thánh, phạm đến các Thánh, các nơi thánh, vật thánh, người được thánh hiến...
Câu 63: Điều răn thứ Hai có liên hệ gì với việc thề hứa?
Thề là lấy Thiên Chúa chân thật làm chứng cho sự thành thật của mình. Thề gian là dám lấy danh Chúa làm chứng cho sự gian giối của mình. Bội thề là hứa với Thiên Chúa một điều gì mà có ý không giữ lời hứa, hoặc sau đó không thực hành điều đã hứa.
Thề gian cũng như bội thề đều là tội nặng xúc phạm đến Chúa. Ngoài ra, không được nại đến danh Chúa vì những chuyện nhỏ nhặt. Tốt hơn, không nên thề thốt chi cả (x. Mt 5, 33-34,37).
Câu 64: Tên Thánh của người Ki-tô hữu có ý nghĩa gì?
Nhận một vị Thánh làm bổn mạng, là cố gắng bắt chước gương mẫu tốt lành của vị Thánh, và được bảo đảm vị Thánh chuyển cầu cho trước mặt Chúa.
Bài 7
Điều răn III: Thánh hóa ngày Chúa Nhật
(x. SGLC từ 2168 đến 2195).
Câu 65: Đâu là ý nghĩa của ngày Sa-bát?
Đối với dân Israel, ngày sa-bát là ngày thánh hiến cho Thiên Chúa. Ngày đó nhắc lại công trình sáng tạo của Thiên Chúa (x. Xh 20, 11) và tưởng nhớ công cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ người Ai cập" (x. Đnl 5,15).
Ngày sa-bát còn là ngày nghỉ ngơi của dân Chúa theo mẫu gương của chính Thiên Chúa, "vì trong sáu ngày Đức Chúa đã dựng nên trời đất, nhưng ngày thứ bảy Người đã ngưng các việc và nghỉ ngơi" (Xh 31, 17).
Câu 66: Đâu là ý nghĩa của ngày Chúa Nhật?
Ngày Chúa nhật trở thành ngày quan trọng nhất của mọi ngày, vì đó là ngày Đức Giêsu đã từ cõi chết sống lại. Chúa Nhật - ngày của Chúa còn là "ngày thứ nhất trong tuần", là ngày khởi đầu cuộc sáng tạo mới của Chúa Phục Sinh. "Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào, ta hãy vui mừng hoan hỉ" (Tv 118, 24).
Câu 67: Đâu là sự khác biệt giữa ngày sa-bát và ngày Chúa Nhật?
Ngày Chúa Nhật tách biệt khỏi ngày sa-bát, không những thay thế ngày sa-bát, mà còn hoàn tất ý nghĩa của ngày sa-bát, và loan báo sự nghỉ ngơi muôn đời nơi Thiên Chúa. "Những người sống trong trật tự cũ của vạn vật, đã đi tới một niềm hy vọng mới: họ không giữ ngày sa bát nữa, nhưng họ giữ ngày Chúa Nhật, là ngày mà cuộc đời của chúng ta được chúc phúc bởi Chúa, và bởi sự chết của Người". (Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô Khi-a).
Câu 68: Thánh lễ Chúa Nhật có ý nghĩa gì?
Ngay từ thời các Tông đồ, Chúa Nhật là ngày tập họp các tín hữu để cử hành Thánh Thể. "Chúa nhật là ngày mà theo truyền thống Tông Đồ, mầu nhiệm Phục sinh vẫn được cử hành, sẽ phải được giữ trong toàn thể Hội Thánh, như ngày lễ buộc chính yếu" (GL 1246).
Tất cả các tín hữu trong cộng đoàn giáo xứ họp nhau cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật chung quanh linh mục, được Đức Giám mục ủy quyền.
Chính tại cộng đoàn giáo xứ mà sinh hoạt phụng vụ, việc dạy giáo lý và các công tác từ thiện được hình thành và tiến triển. Mọi sinh hoạt Kitô giáo đều bắt nguồn và đặt nền nơi Thánh lễ ngày Chúa Nhật.
Tham dự Thánh lễ Chúa Nhật là một bằng chứng trung thành với Chúa Kitô và với Hội Thánh, đồng thời các tín hữu hiệp thông với nhau trong tin yêu, nâng đỡ và khuyến khích nhau.
Câu 69: Ta phải làm gì để thánh hóa ngày Chúa Nhật?
Ngoài việc tham dự Thánh lễ là bổn phận trước tiên và chủ yếu để thánh hóa ngày của Chúa, người tín hữu còn dành Chúa nhật cho những việc hữu ích và cần thiết khác theo ý muốn của Chúa.
Giáo luật quy định: "Chúa Nhật và các lễ buộc khác, tín hữu buộc phải tham dự Thánh lễ; lại nữa, phải kiêng những việc làm, và những hoạt động làm cản trở việc thờ phượng Thiên Chúa, niềm vui riêng trong ngày của Chúa, hoặc việc nghỉ ngơi tinh thần và thể xác cần phải có" (GL 1247).
Thời giờ ngày Chúa Nhật cũng có mục đích dành để sống với gia đình, trau dồi văn hóa nghệ thuật cũng như đạo đức, và để thăm viếng bạn bè, nhất là đến với những bệnh nhân, tàn tật, già yếu, cô đơn. "Mỗi người cần được hưởng đầy đủ sự nghỉ ngơi và thời giờ nhàn rỗi, để sống đời sống gia đình, văn hóa, xã hội và tôn giáo" (MV 67).
Bài 8
Điều răn IV: Thảo Kính Cha Mẹ
(x. SGLC từ 2197 đến 2257)
Câu 70: Đâu là bản chất của Gia đình?
Khi dựng lên con người có nam và nữ, là Thiên Chúa đã muốn thiết lập gia đình. Gia đình được xây dựng dựa trên giao ước và sự ưng thuận tự do của vợ chồng, và hướng tới lợi ích cho vợ chồng cũng như tới việc sinh sản giáo dục con cái.
Cha mẹ cùng với con cái có những liên hệ mật thiết và tự nhiên trong gia đình, và mỗi thành viên trong gia đình đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, nhưng có những trách nhiệm quyền lợi và bổn phận khác nhau, để phục vụ lợi ích chung của gia đình và xã hội.
Câu 71: Tại sao nói: “Gia đình Công Giáo có nhiệm vụ Phúc Âm hóa và Truyền giáo”?
Gia đình Kitô giáo mang đầy đủ bản chất của một gia đình. Ngoài ra, GĐCG còn thể hiện sự hiệp thông giữa những người có đức Tin, Cậy, Mến, mang dấu vết và hình ảnh của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.
Gia đình Kitô giáo cũng còn "mặc khải và thể hiện cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh, bởi đó mà gia đình Kitô giáo được gọi là một Hội Thánh tại gia" (Tông huấn gia đình, 21).
Việc sinh sản và giáo dục con cái trong gia đình Kitô giáo phản ánh công trình sáng tạo của Chúa Cha, và gia đình Kitô giáo được mời gọi để tham dự việc cầu nguyện và hiến tế của Chúa Kitô, gia đình ấy cũng là một "cộng đồng có đặc ân, để vợ chồng thể hiện sự đồng tâm nhất trí cũng như sự cộng tác ân cần trong việc giáo dục con cái" (MV 52,1).
Câu 72: Tại sao nói: Gia đình là cuộc khai tâm vào đời sống xã hội?
Gia đình là tế bào đầu tiên của đời sống xã hội, là một cộng đoàn mà vợ chồng liên kết cho nhau trong tình yêu và trong việc trao ban sự sống. Quyền bính, sự ổn định và những mối liên hệ trong gia đình là nền tảng cho sự tự do, an ninh, và tình huynh đệ trong xã hội.
Vì thế gia đình phải sống sao để mọi thành phần biết quan tâm lo lắng cho người trẻ cũng như già, người đau yếu hay khuyết tật, và cả những người nghèo trong gia đình mình.
Câu 73: Xã hội phải có bổn phận gì đối với gia đình?
Vì gia đình có tầm quan trọng đối với sự sống và sự lành mạnh của xã hội (x. Mv 47) nên xã hội có trách nhiệm:
- Quyền tự do xây tổ ấm, tự do sinh sản và dưỡng dục con cái theo xác tín luân lý và tôn giáo của mình.
- Quyền tự do tuyên xưng và truyền bá đức tin, cũng như giáo dục con cái trong đức tin bằng những phương thế cần thiết.
Câu 74: Con cái phải làm gì để thể hiện lòng Hiếu thảo đối với những bậc sinh thành?
Để thể hiện lòng Hiếu thảo đối với những bậc sinh thành, con cái phải có bổn phận:
Câu 75: Cha mẹ có bổn phận huấn luyện nhân bản cho con cái thế nào?
Câu 76: Cha mẹ có bổn phận huấn luyện đức tin cho con cái thế nào?
Câu 77: Gia đình có bổn gì với ơn gọi của con cái?
Cha mẹ phải đón nhận và tôn trọng với niềm vui và lòng biết ơn khi biết Chúa gọi con cái mình theo Chúa trong bậc sống khiết tịnh Nước Trời, hay bậc sống tận hiến, hoặc bậc sống giáo sĩ.
Câu 78: Đâu là bổn phận của Nhà cầm quyền trong việc thăng tiến con người?
Câu 79: Đâu là bổn phận của người công dân đối với chính quyền và Tổ quốc?
Câu 80: Ngoài bổn phận phải thảo kính cha mẹ, điều răn thứ IV còn dạy ta điều gì khác nữa?
Câu 81: Điều răn thứ IV còn dạy ta điều gì về Đạo Hiếu của con người Việt Nam?
Bài 9
Điều răn thứ V: Tôn trọng sự sống
(x. SGLC từ 2258 đến 2330).
Câu 82: Tại sao phải tôn trọng sự sống con người?
Phải tôn trọng sự sống con người vì những lý do sau:
1. Sự sống là thánh thiêng và là quà tặng từ Thiên Chúa
2. Sự sống có phẩm giá nội tại
3. Giáo huấn Thánh Kinh
4. Nền tảng của học thuyết xã hội
5. Sự sống là mục đích
Tóm lại, việc tôn trọng sự sống con người là một mệnh lệnh thiêng liêng và luân lý sâu sắc, bắt nguồn từ đức tin vào Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Chủ Tể của sự sống, cùng với việc nhìn nhận phẩm giá cao cả của con người được tạo dựng theo hình ảnh Ngài.
Câu 83: Đâu là lý do cho phép tự vệ chính đáng?
Vì yêu mến bản thân là một nguyên tắc căn bản của luân lý, nên ta có quyền chính đáng để đòi hỏi mọi người phải tôn trọng quyền sống của ta. Nếu vì bảo vệ sự sống mình mà phải giết kẻ gây hấn, thì không phạm tội giết người.
Sự tự vệ chính đáng này không những là một quyền mà còn là một bổn phận cốt yếu của những ai có trách nhiệm đối với sự sống người khác, đối với lợi ích chung của gia đình hay xứ sở. Để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, họ phải làm cho kẻ gây hấn không thể tác hại nữa.
Câu 84: Giáo huấn của Hội Thánh nói gì về quyền tự vệ chính đáng?
Giáo huấn của Hội Thánh công nhận rằng chính quyền hợp pháp có quyền và bổn phận trừng phạt tùy theo tội nặng nhẹ, và trong các trường hợp tội rất nặng thì được phạt tử hình.
Cũng vì lý do trên, các nhà cầm quyền được phép dùng võ khí để đẩy lui những kẻ gây hấn khỏi địa phương mình chịu trách nhiệm.
Câu 85: Hình phạt do tự vệ chính đáng đem lại những hiệu quả nào?
Tuy nhiên, nếu chỉ dùng những biện pháp không đổ máu cũng đủ để bảo vệ trật tự an ninh thì nhà cầm quyền nên sử dụng, vì như thế phù hợp hơn với lợi ích chung và phẩm giá con người.
Câu 86: Những tội nào nghịch lại điều răn thứ V?
Có những tội này: Cố ý giết người, Phá thai, Làm chết êm dịu và tội Tự sát.
Câu 87: Những hành vi nào phạm vào tội cố ý giết người?
Có những hành vi sau:
Câu 88: Đâu là lý do không được phép phá thai?
Các lý do chính mà Giáo hội Công giáo không cho phép phá thai bắt nguồn từ các giáo lý nền tảng về sự sống con người và lòng tin vào Thiên Chúa. Lập trường này đã được giữ vững từ thế kỷ thứ nhất và được củng cố trong Giáo lý Hội thánh Công giáo.
1. Sự sống là thánh thiêng từ lúc thụ thai
Giáo hội dạy rằng sự sống con người là một quà tặng thánh thiêng từ Thiên Chúa và phải được tôn trọng, bảo vệ từ lúc thụ thai cho đến khi chết tự nhiên.
2. Thiên Chúa là Chúa tể của sự sống
Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền ban sự sống và lấy đi sự sống. Con người không có quyền tự ý phá hủy sự sống của một người vô tội. Phá thai trực tiếp bị coi là một trọng tội chống lại sự sống, vì nó là hành động cố ý giết chết một con người vô tội.
3. Nguyên tắc phẩm giá con người
Giáo hội tin vào nguyên tắc phẩm giá vốn có của mỗi con người. Mỗi cá nhân, bất kể tuổi tác, tình trạng hay vị trí, đều có giá trị và phẩm giá bẩm sinh. Việc phủ nhận phẩm giá của thai nhi dựa trên sự thay đổi về tuổi tác, kích thước hay tình trạng sẽ làm suy yếu nền tảng của quyền con người.
4. Tội lỗi chống lại giới răn "ngươi chớ giết người"
Theo Giáo lý Công giáo, phá thai trực tiếp vi phạm giới răn thứ năm trong Mười Điều Răn: "Ngươi chớ giết người". Giáo hội khẳng định rằng việc cố tình hủy hoại một sinh mạng, dù là thai nhi, là một tội ác nghiêm trọng chống lại luật luân lý.
5. Văn hóa sự sống thay vì văn hóa sự chết
Giáo hội cổ vũ một "văn hóa sự sống", nơi mọi sự sống được trân trọng và bảo vệ. Ngược lại, Giáo hội lên án "văn hóa sự chết", một thái độ khuyến khích phá thai, an tử và các hành vi khác chống lại sự sống.
6. Sự đồng thuận của các tín hữu từ xa xưa
Lập trường phản đối phá thai của Giáo hội không phải là một sự phát triển gần đây. Ngay từ thế kỷ thứ nhất, các Kitô hữu đã coi việc giết thai nhi trong bụng mẹ là một tội ác nghiêm trọng. Các Giáo phụ, chẳng hạn như Thánh Basiliô Cả vào thế kỷ thứ tư, đã mạnh mẽ lên án phá thai.
Câu 89: Hành động nào được kể là trực tiếp phá thai?
Theo giáo huấn của Giáo hội Công giáo, phá thai trực tiếp là hành động cố ý giết hại thai nhi, bất kể bằng cách nào, vì nó được coi là sự xâm phạm nghiêm trọng đến sự sống của một con người vô tội ngay từ lúc thụ thai. Hành động này có thể được thực hiện trực tiếp với mục đích kết liễu thai nhi, hoặc sử dụng cái chết của thai nhi như một phương tiện để đạt được một mục đích khác.
Những hành động cụ thể được coi là phá thai trực tiếp bao gồm:
Câu 90: Nguyên tắc “tác động kép” là gì?
Cần phân biệt với khái niệm "phá thai gián tiếp" (không được coi là phá thai trực tiếp) trong những trường hợp đặc biệt, áp dụng theo nguyên tắc "tác động kép" của thần học luân lý Công giáo. Một ví dụ điển hình là trường hợp một người phụ nữ bị ung thư tử cung trong thời kỳ mang thai, và các bác sĩ phải cắt bỏ tử cung để cứu mạng người mẹ. Trong tình huống này:
Giáo hội không coi đây là một vụ phá thai trực tiếp, vì mục đích chính của hành động không phải là giết hại thai nhi mà là cứu mạng người mẹ, một hành động cần thiết về mặt y khoa. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ áp dụng trong những trường hợp cực kỳ hiếm hoi và với sự cân nhắc kỹ lưỡng về mặt luân lý.
Tóm lại, phá thai trực tiếp theo giáo huấn của Giáo hội Công giáo là bất kỳ hành động nào cố ý nhắm đến việc giết hại thai nhi, bất kể bằng cách nào hay với mục đích gì. Vì "Phá thai và giết trẻ em là tội ác ghê tởm" (MV 51,3).
Ngoài ra, Giáo Hội cũng không chấp nhận việc sản xuất các thai nhi để khai thác như vật liệu cho sinh học. Vì đó cũng là hành động vô luân lý.
Câu 91: Tội phá thai mang lại hậu quả nào?
Giáo huấn của Hội Thánh dạy: "Ai thực hiện việc phá thai có kết quả thì mắc vạ tuyệt thông" (CIC số 1348)
Khi phạt vạ tuyệt thông, Hội Thánh không muốn thu hẹp lòng thương xót, nhưng muốn nêu bật sự trầm trọng của tội phá thai, và sự thương tổn không thể nào sửa chữa được đã gây ra cho trẻ vô tội bị giết chết, cho cha mẹ và cho cả xã hội.
Câu 92: Đâu là lý do Giáo Hội không cho phép “Làm chết êm dịu”?
Những người đau yếu, khuyết tật cần được nâng đỡ để sống đời bình thường như có thể được. Thế nên, trực tiếp làm cho họ được chết êm dịu, là không thể chấp nhận được về luân lý, dù với bất cứ lý do hay trong phương tiện nào, vì nghịch với phẩm giá con người và xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa.
Câu 93: Việc cho ngưng dùng các thuốc quá tốn kém, nguy hiểm, quá khác thường hoặc không xứng với kết quả mong muốn, có phải là “làm chết êm dịu”?
Nếu ngưng dùng các thuốc quá tốn kém, nguy hiểm, quá khác thường hoặc không xứng với kết quả mong muốn, và vì thế đương sự phải chết thì hợp pháp. Vì không phải muốn làm chết, nhưng chỉ là chấp nhận không thể ngăn được sự chết. Nhưng việc này phải được chính bệnh nhân, hay người hưởng quyền trước pháp luật quyết định.
Câu 94: Tại sao Giáo Hội nghiêm cấm việc tự sát?
Mỗi người có trách nhiệm trước Thiên Chúa về sự sống của mình, vì Thiên Chúa mới là chủ tối cao của sự sống, phần ta phải đón nhận sự sống với lòng biết ơn, và bảo vệ nó vì danh dự và vì ơn cứu độ cho linh hồn. Con người chỉ là quản lý chứ không làm chủ sự sống.
Tự sát là tội nặng nghịch lý với đức công bằng, đức cậy và đức ái, vì nó nghịch với bản năng sinh tồn, nghịch nặng với lòng yêu mình cách chính đáng, xúc phạm đến đức yêu người, vì cắt đứt cách bất công mối tình liên đới bó buộc mình phải có với gia đình, đất nước và nhân loại, nhất là nghịch với Thiên Chúa hằng sống.
Câu 95: Có khi nào được giảm nhẹ trách nhiệm khi tự sát?
Theo giáo huấn của Giáo hội Công giáo, có khi trách nhiệm luân lý của hành vi tự sát có thể được giảm nhẹ. Mặc dù Giáo hội coi tự sát là một tội trọng vì nó vi phạm quyền làm chủ sự sống của Thiên Chúa, nhưng Giáo lý Công giáo thừa nhận rằng một số yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng đến khả năng phán đoán và sự tự do ý chí của một người, từ đó làm giảm trách nhiệm luân lý của họ.
Câu 96: Đâu là những yếu tố có thể làm giảm nhẹ trách nhiệm luân lý của người tự sát?
Những yếu tố có thể làm giảm nhẹ trách nhiệm luân lý bao gồm:
Vì những lý do kể trên, Giáo hội Công giáo không tuyệt vọng về số phận của những người tự sát. Trong lòng nhân từ của Thiên Chúa, Ngài có thể ban cho họ cơ hội để ăn năn sám hối trước khi chết. Giáo hội khuyến khích cầu nguyện cho những người đã tự sát, thay vì phán xét hay tuyệt vọng về ơn cứu độ của họ.
Tóm lại, trong khi hành vi tự sát vẫn bị coi là sai trái về mặt khách quan, Giáo hội Công giáo nhìn nhận rằng những yếu tố chủ quan có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của tội lỗi này.
Câu 97: Giáo Hội có thái độ như thế nào đối với trường hợp tự sát?
Thái độ của Giáo hội Công giáo đối với trường hợp tự sát là một sự kết hợp giữa việc lên án hành vi này như một tội trọng và lòng thương xót sâu sắc đối với người đã thực hiện hành vi đó. Giáo hội không bao giờ tuyệt vọng về ơn cứu độ của những người tự sát và khuyến khích cầu nguyện cho họ.
Tự sát là một tội trọng
Về mặt luân lý khách quan, Giáo hội Công giáo coi tự sát là một hành vi vi phạm nghiêm trọng giới răn thứ năm "Ngươi không được giết người". Tự sát bị xem là sai trái vì những lý do sau:
Giảm nhẹ trách nhiệm luân lý
Tuy nhiên, Giáo hội cũng thừa nhận rằng một số yếu tố tâm lý và hoàn cảnh bên ngoài có thể làm giảm nhẹ trách nhiệm luân lý của người tự sát. Cụ thể, Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) nêu rõ: "Những rối loạn tâm thần trầm trọng, quá lo âu, hoặc nỗi sợ hãi gay gắt trước một thử thách, một đau khổ hay một sự tra tấn có thể làm giảm trách nhiệm của người tự sát" (GLHTCG số 2283).
Vì vậy, Giáo hội không khẳng định rằng người tự sát sẽ bị luận phạt đời đời. Thay vào đó, Giáo hội tin tưởng vào lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa.
Lòng thương xót và cầu nguyện
Thái độ của Giáo hội ngày nay thể hiện sự cảm thông sâu sắc hơn.
Tóm lại, thái độ của Giáo hội Công giáo với trường hợp tự sát là vừa rõ ràng về mặt giáo lý (coi đó là một hành vi sai trái) vừa đầy lòng thương xót về mặt mục vụ. Giáo hội lên án hành vi, nhưng đồng thời bày tỏ sự cảm thông và lòng tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, đặc biệt khi người tự sát có thể chịu tác động bởi những yếu tố tâm lý phức tạp.
Câu 98: Ta phải làm gì để tôn trọng sự sống?
Để tôn trọng sự sống, ta cần phải:
Câu 99: Ta phải làm gì để tôn trọng sự sống thiêng liêng của người khác?
Không được để mình trở nên gương xấu cho người khác, như: cám dỗ người khác làm điều xấu, phá hoại nhân đức và sự ngay chính của họ, lôi kéo người khác vào chỗ mất linh hồn.
Câu 100: Khi nào thì gương xấu là tội nặng?
Gương xấu là tội nặng, khi dùng hành động hoặc không hành động để cố tình làm cho người khác phạm tội nặng.
Gương xấu trở thành tội nặng đặc biệt tùy theo uy thế của người gây ra. (Thầy dạy, nhà giáo dục) (x.Mt 7,15) và tùy theo sự yếu đuối của người chịu ảnh hưởng của nó. Như lời Chúa nói: "Những ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn" (Mt 18,6).
Câu 101: Tại sao ta phải tôn trọng sức khỏe của mình và của người khác?
Vì sự sống và sức khỏe phần xác là những của cải quý báu Thiên Chúa trao ban, ta phải chăm lo cho hợp lý, đồng thời phải tôn trọng những nhu cầu của người khác và của công ích. Tuy nhiên, luân lý không cổ võ cho việc tôn thờ thân xác, dùng tất cả mọi sự chỉ để lo sắc đẹp và thành công về thể thao.
Câu 102: Ta phải làm gì để tôn trọng sức khỏe của mình và của người khác?
Câu 103: Giáo Hội dạy gì về việc nghiên cứu khoa học trên thân thể con người?
Những nghiên cứu của khoa học, y học hay tâm lý học về con người hoặc về các nhóm người, có thể giúp chữa trị bệnh tật và thăng tiến sức khỏe của mọi người. Nhưng để tìm tòi và nghiên cứu trên thân thể con người, không thể cho phép những hành vi tự chúng nghịch với phẩm giá con người và luật luân lý, dù đương sự đó có ưng thuận cũng không được.
Việc thí nghiệm như thế cũng không hợp pháp, nếu nó có thể gây cho sự sống hoặc sự vẹn toàn thể lý hay tâm lý của đương sự những rủi ro không tương xứng và có thể tránh được.
Những thí nghiệm trên thân thể con người đều không phù hợp với phẩm giá con người, nếu lại không được đương sự hay người có thẩm quyền ưng thuận rõ ràng. Ví dụ: Việc cắt và cấy các cơ quan của người này cho người kia.
Câu 104: Những hành động nào được coi là không tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể?
Có những hành động như:
Câu 105: Ta phải có thái độ thế nào đối với người hấp hối cũng như khi họ qua đời?
Câu 106: Người Công Giáo có được hiến tặng phần thân thể sau khi chết không?
Việc hiến tặng các phần thân thể sau khi chết là hợp pháp và đáng khen. Hội Thánh cho phép hỏa táng nếu không tổn hại đến niềm tin về việc xác sống lại (x.CIC số 1176,3).
Câu 107: Giáo Hội quan niệm thế nào về “Hòa Bình”?
Giáo Hội cho rằng:
Câu 108: Giáo Hội quan niệm thế nào về “Chiến tranh”?
Vì chiến tranh nào cũng gây bao tai họa và bất công, nên Hội Thánh thôi thúc mọi người cầu nguyện và hoạt động để "lòng nhân từ" Thiên Chúa giải thoát ta khỏi ách nô lệ chiến tranh.
Tuy nhiên, bao lâu còn có nguy cơ xảy ra chiến tranh, và bao lâu chưa có một uy quyền quốc tế có thẩm quyền và có trong tay những lực lượng đầy đủ, người ta sẽ không thể khước từ quyền tự vệ chính đáng của các nhà cầm quyền, một khi đã tận dụng các khả năng dàn xếp hòa bình (MV 79,4).
Câu 109: Khi nào một quốc gia có thể thi hành quyền tự vệ chính đáng bằng quân lực?
Để có thể thi hành quyền tự vệ chính đáng bằng quân lực, cần xem xét để hội đủ các điều kiện sau:
Câu 110: Trong trường hợp phải tiến hành chiến tranh tự vệ, chính quyền có quyền và bổn phận nào?
Chính quyền có quyền và bổn phận áp đặt trên công dân những nghĩa vụ cần thiết cho việc quốc phòng. "Đối với những ai hy sinh phục vụ tổ quốc trong quân ngũ, họ cũng phải coi mình như những người đem lại an ninh và tự do cho các dân tộc. Và nếu họ chu toàn bổn phận này họ thực sự đóng góp vào việc cũng cố hòa bình"? (MV 79,5).
Tuy nhiên, dù trong chiến tranh, lúc nào các luật luân lý cũng có hiệu lực, "không phải vì chiến tranh đã chẳng may khai diễn mà các đối phương đều được cho phép làm gì thì làm" (Mv 79).
Phải tôn trọng và đối xử nhân đạo với những người không chiến đấu, với thương binh và tù binh.
Những hành động cũng như những lệnh truyền được suy tính nhưng trái với nhân quyền và trái với các nguyên tắc phổ quát đều là tội ác. Cần phải chống lại những mệnh lệnh như vậy.
"Mọi hành vi chiến tranh nhằm tiêu diệt bừa bãi cả một thành phố hoặc những vùng rộng lớn với dân cư ở đó, là một tội ác chống lại Thiên Chúa và chính con người. Cần phải cực lực và không ngần ngại lên án những tội ác đó" (MV 80).
Các vũ khí hiện đại như vũ khí hạt nhân hay hóa học, rất dễ dàng gây nên những tội ác như vậy.
Câu 111: Giáo Hội có thái độ nào đối với việc “Chạy đua vũ trang”, sản xuất và buôn bán vũ khí?
Bài 10
Điều răn thứ VI: Sống trong sạch
(x. SGLC từ 2331 đến 2400).
Câu 112: Giới tính mang lại cho con người những giá trị nào?
Giới tính chi phối mọi khía cạnh của con người cả hồn lẫn xác, đặc biệt là khía cạnh cảm xúc, khả năng yêu thương và sinh sản, nói tổng quát hơn là khả năng nối kết những quan hệ để hiệp thông với người khác.
Câu 113: Con người phải có thái độ nào với giới tính của mình?
Mỗi người nam và nữ phải hiểu biết và chấp thuận giới tính của mình đó là những đặc tính vừa khác biệt vừa bổ túc cho nhau về thể xác, luân lý và tinh thần, cốt để mưu ích cho hôn nhân và phát huy đời sống gia đình.
Sự hòa hợp trong đời sống lứa đôi và đời sống xã hội, tùy thuộc một phần vào cách sống của hai người nam nữ biết bổ túc cho nhau, biết nâng đỡ nhau và nương tựa lẫn nhau. Nam hay nữ đều có phẩm giá bình đẳng như nhau, nhưng mỗi giới phản ánh quyền năng và tình âu yếm của Thiên Chúa cách khác nhau.
Câu 114: Làm sao để có thể sống đức khiết tịnh?
Phải tập tự chủ, tập hướng dẫn tự do của mình, không để mình nô lệ các đam mê, các bản năng hoặc áp lực bên ngoài (x.MV 17).
Biết kiềm chế cho phù hợp hoàn cảnh sống, vâng theo luật Chúa, siêng năng cầu nguyện, tập các nhân đức, đặc biệt là nhân đức tiết độ, dùng lý trí chi phối các đam mê và thèm muốn tình cảm.
Câu 115: Những ai được mời gọi sống đức khiết tịnh?
Mỗi Kitô hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh trong bậc sống của mình. "Người thì khiết tịnh trong bậc đồng trinh hay bậc độc thân được thánh hiến, là phương thế trổi vượt để dễ dàng hiến dâng cho Thiên Chúa một con tim không chia sẻ: người khác thì khiết tịnh theo luật luân lý ấn định chung cho mọi người trong bậc sống vợ chồng hoặc ở vậy (độc thân) ". (CDF 11).
Câu 116: Những người sống bậc gia đình sống đức khiết tịnh thế nào?
Những người sống bậc gia đình cũng được mời gọi sống khiết tịnh bằng việc tiết dục. Việc tiết dục giúp họ tôn trọng nhau, tập giữ lòng chung thủy, và hy vọng được Chúa giúp chấp nhận nhau. Họ giúp nhau lớn lên trong khiết tịnh.
Câu 117: Những tội nào nghịch với đức khiết tịnh?
Có những tội này:Tội dâm ô, Thủ dâm, Tà dâm, Khiêu dâm, Mãi dâm, Hiếp dâm và Đồng tính luyến ái
Câu 118: Tội dâm ô là gì?
Tội dâm ô là một ước muốn hỗn loạn chỉ tìm hướng khoái lạc nhục dục mà không nhằm mục đích sinh sản và hiệp nhất với nhau. Ước muốn như vậy trái luân lý.
Câu 119: Tội thủ dâm là gì?
Tội thủ dâm là cố tình kích thích cơ quan sinh dục để tìm khoái lạc nhục dục, ngoài mục đích yêu thương và hiến dâng trọn vẹn cho nhau, để sinh sản con cái (x. CDF Persona Humana 9).
Câu 120: Trong mục vụ, để xét đoán cho đúng mức độ của tội thủ dâm, cần lưu ý điều gì?
Trong mục vụ, để xét đoán cho đúng tội này, cần lưu ý đến tình trạng chưa trưởng thành về tình cảm, đến sức mạnh của thói quen đã mắc phải, đến tình trạng xao xuyến và các nhân tố tâm lý hay xã hội làm giảm tội, và thậm chí còn xóa bỏ tội về mặt luân lý.
Câu 121: Tội tà dâm là gì?
Tội tà dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và người nữ. Tội này nghịch nặng với nhân phẩm và tính dục của con người, vì tính dục hướng tới lợi ích của vợ chồng, cũng như sinh sản và giáo dục con cái. Tội này gây gương xấu nặng khi phạm với thanh thiếu niên.
Câu 122: Tội khiêu dâm là gì?
Tội khiêu dâm là trình bầy cho người khác những hành vi tính dục đã làm thật hoặc chỉ giả vờ. Nó làm biến chất hành vi vợ chồng hiến dâng thân mật cho nhau. Nó xúc phạm phẩm giá của những người lao mình vào nó: diễn viên, con buôn, dân chúng, vì người này trở thành một trò chơi thô lỗ và một mối lợi bất chính cho người kia. Nó dìm cả đôi bên trong ảo tưởng về một thế giới giả tạo. Đó là một lỗi nặng.
Câu 123: Tội mãi dâm là gì?
Tội mãi dâm là xúc phạm đến phẩm giá của người hành nghề mãi dâm, vì họ chỉ là trò vui nhục dục cho người khác. Người mua dâm phạm tội nặng đến chính mình vì lỗi đức khiết tịnh đã cam kết khi được Rửa tội, và làm ô uế thân thể mình là đền thờ Chúa Thánh Thần. Đây là một tai họa trong xã hội, thường liên hệ đến phụ nữ, nhưng cũng liên hệ đến cả đàn ông, trẻ em hoặc thiếu niên. Với giới trẻ này, người ta còn phạm tội làm gương xấu nữa. Tuy nhiên sự nghèo khổ và áp lực xã hội có thể giảm đi trách nhiệm.
Câu 124: Tội hiếp dâm là gì?
Tội hiếp dâm là dùng bạo lực cưỡng bức người khác phải quan hệ tình dục. Tội này phạm đến đức công bằng và đức ái, nghĩa là đến quyền được tôn trọng, quyền tự do và sự toàn vẹn thanh khiết cả thân xác lẫn tinh thần của con người. Nó có thể gây thương tổn nặng cho nạn nhân phải chịu ảnh hưởng suốt đời. Tội này đặc biệt nặng nề khi do cha mẹ hay các người giáo dục phạm đến những trẻ được trao phó cho mình.
Câu 125: Tội đồng tính luyến ái là gì?
Tội đồng tính luyến ái là tội của những nam hay nữ bị cám dỗ về tình dục, nhưng chỉ với người cùng giới với mình thôi. Kinh Thánh vẫn lên án việc này là "việc suy đồi trầm trọng" (x.St 19,1-29; Rm 1,24-27) và truyền thống luôn coi đó là hành vi thác loạn, trái với luật tự nhiên, nghịch với việc trao ban sự sống, không phải là để bổ khuyết tình cảm và tính dục thực sự.
Câu 126: Ta cần có thái độ nào với người phạm tội đồng tính luyến ái?
Đa số những người phạm tội này không tự chọn tình trạng đồng tính luyến ái, họ cần được đối xử kính trọng, thông cảm và tế nhị, tránh kỳ thị họ cách bất công. Họ có thể nhờ sự tự chủ để tập luyện cho mình được tự do nội tâm, nhờ bạn hữu nâng đỡ, nhờ cầu nguyện và lãnh các bí tích để trở về với đời sống Kitô hữu trọn hảo.
Câu 127: Giáo Hội nhìn nhận thế nào về sự phối hợp vợ chồng?
Trong hôn nhân sự kết hợp thể xác của vợ chồng là dấu chỉ và đảm bảo cho sự hiệp thông tinh thần. "Những hành vi thể hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của vợ chồng là những hành vi đức hạnh và xứng đáng, chúng bày tỏ và giúp vợ chồng hiến thân để làm cho nhau thêm phong phú trong niềm vui và biết ơn". (MV 49,2).
Nhờ sự phối hợp mà vợ chồng thể hiện được mục đích kép của hôn nhân, đó là lợi ích của chính vợ chồng và việc sinh sản. Đây là hai ý nghĩa và hai giá trị của hôn nhân mà ta không thể tách rời.
Câu 128: Đâu là ý nghĩa của sự Chung thủy giữa vợ chồng trong Hôn nhân Công Giáo?
Vợ chồng làm thành "một cộng đồng thân mật để sống và yêu, theo những lề luật do Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và trao ban. Cộng đồng này được thiết lập trên giao ước giữa hai vợ chồng, nghĩa là trên sự ưng thuận của mỗi người và không thể rút lại được" (MV 48,1).
Giao ước này đòi họ phải duy trì một vợ một chồng và không được tháo gỡ (Giáo luật 1056). "Điều gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phân ly" (Mc 10,9). Sự chung thủy giữa vợ chồng chứng tỏ lời họ hứa đã được duy trì bền vững.
Câu 129: Đâu là ý nghĩa của việc Sinh sản con cái trong Hôn nhân Công Giáo?
Sinh con là một ân huệ và là mục đích của hôn nhân. Đứa con là hoa trái và là thành tựu do tình yêu hiến dâng của vợ chồng, và vợ chồng được dự phần vào quyền sáng tạo và tình yêu phụ tử của Thiên Chúa (x.MV 50,2).
Vợ chồng vừa truyền thông sự sống, vừa là người giáo dục, đó là sứ mệnh riêng của họ. Họ biết rằng chính mình cộng tác viên của Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa và là thông ngôn của Người (MV 50,2).
Câu 130: Giáo Hội dạy thế nào về việc sinh sản có trách nhiệm?
Trách nhiệm sinh sản con cái đòi hỏi vợ chồng phải điều hòa việc sinh sản, nghĩa là nếu có lý do chính đáng, vợ chồng có thể cách quãng việc sinh con, nhưng không được chiều theo lòng ích kỷ, mà phải theo lòng quảng đại của bậc cha mẹ có trách nhiệm.
Câu 131: Muốn điều hòa sinh sản, vợ chồng phải làm thế nào?
Muốn điều hòa việc sinh sản, họ phải theo những phương pháp phù hợp với luân lý như: chế dục định kỳ, phương pháp điều hòa dựa trên việc tự quan sát bản thân, và phương pháp dựa vào thời kỳ không thụ thai. Các phương pháp này tôn trọng thân xác vợ chồng, khích lệ tình âu yếm nhau và giúp họ tập luyện tự do đích thực.
Do đó, "mọi hoạt động nào diễn ra trước hoặc đang khi vợ chồng ăn ở với nhau, hoặc là sau đó trong diễn tiến và phát triển các hiệu quả tự nhiên của nó, nếu được dùng như mục đích hay phương tiện để làm cho không thể sinh sản được, đều là xấu tự bản chất" (HV 14).
Câu 132: Giáo Hội dạy thế nào về việc thụ tinh nhân tạo?
Những kỹ thuật tân tiến ngày nay như thụ tinh nhân tạo do tinh và noãn không phải của chồng hay vợ, đều là việc bất chính nghiêm trọng (CDF Don vit 2,1)
Cả khi thụ tinh nhân tạo do tinh của chồng cũng không thể chấp nhận về mặt luân lý, vì nó tách biệt hành vi tính dục với hành vi sinh sản.
Câu 133: Tội ngoại tình là gì?
Ngoại tình có ý chỉ sự bất trung giữa vợ chồng. Khi ít là một trong hai người nam nữ đã có vợ chồng, mà lại quan hệ tình dục với nhau, dù chỉ chóng qua thôi, họ đã phạm tội ngoại tình.
Câu 134: Đâu là lý do Giáo Hội không cho phép ngoại tình?
Có những lý do sau:
Câu 135: Đâu là lý do Giáo Hội không cho phép ly dị?
Câu 136: Đâu là hậu quả của việc ly dị?
Ly dị vi phạm nặng luật tự nhiên, và còn xúc phạm đến giao ước mà Bí tích Hôn phối là dấu hiệu. Nếu người đã ly dị còn kết hôn nữa, thì họ ở trong tình trạng ngoại tình công khai và thường xuyên.
Ly dị còn vô luân nữa, vì nó gây xáo trộn trong gia đình: người bạn đời bị bỏ rơi, con cái bị tổn thương vì cha mẹ chia ly, còn trong xã hội, nó như một vết thương dễ lây nhiễm.
Câu 137: Giáo Hội dạy thế nào về việc ly thân giữa vợ chồng?
Ly thân giữa vợ chồng, nhưng vẫn giữ dây hôn phối, đó là điều hợp pháp trong một số trường hợp giáo luật đã dự trù, chẳng hạn một trong hai vợ chồng: 1. Gây nguy hiểm nặng nề hoặc về hồn hay xác cho người kia và cho con cái. 2. Làm cho đời sống chúng trở nên cơ cực, (CIC luật 1153).
Câu 138: Tội loạn luân mang lại những hậu quả thế nào?
Tội này phá hủy quan hệ gia đình và biểu lộ một sự thoái hóa hướng về thú tính.
Người lớn phạm tội loạn luân với thiếu niên hay trẻ con được gởi gắm cho mình thì còn tội gấp đôi, vì gây gương xấu và làm cho người trẻ mang dấu vết suốt đời, và còn vi phạm trách nhiệm giáo dục nữa.
Bài 11
Điều răn VII: Sống công bằng
(x. SGLC từ 2401 đến 2463).
Câu 139: Đâu là những khuynh hướng sai lầm về của chung và của riêng?
Trong lịch sử nhân loại, người ta chứng kiến hai khuynh hướng đối nghịch nhau: Một đàng nhấn mạnh đến quyền làm chủ tập thể, đến nỗi khước từ quyền tư hữu, làm mất đi tự do và sáng kiến cá nhân. Đàng khác đề cao quyền tư hữu đến độ đánh mất ý thức về người khác, tạo ra tình trạng bất bình đẳng trong xã hội càng ngày càng lớn.
Câu 140: Giáo Hội dạy thế nào về của chung và của riêng?
Giáo Hội dạy rằng:
Câu 141: Điều răn thứ 7 dạy gì về tôn trọng sở hữu của tha nhân?
Câu 142: Đức công bằng đòi hỏi phải đền bù những thiệt hại đã gây ra cho người khác bằng cách nào?
Câu 143: Có trường hợp nào, lấy của người khác mà không bị coi là trộm cắp không?
Câu 144: Điều răn thứ 7 dạy gì về việc tôn trọng thiên nhiên?
Điều răn thứ 7 dạy rằng: Khoáng sản, thực vật, động vật là những tài nguyên Thiên Chúa ban tặng cho tất cả mọi người. Vì thế, một đàng con người được phép khai thác những tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cuộc sống, nhưng đàng khác phải tôn trọng thiên nhiên là của cải chung, cho con người hôm nay và cho cả những thế hệ mai sau.
Câu 145: Giáo Hội dạy thế nào về việc phát triển kinh tế?
Phát triển kinh tế nhằm mục đích mục vụ nhu cầu của con người. Vì thế "phải cổ võ tất cả những yếu tố góp phần vào việc phát triển ấy" (MV 64).
Tuy nhiên, mục đích căn bản của sản xuất không chỉ là gia tăng sản lượng, lợi tức hay quyền lợi, mà chính là để phục vụ con người, và là con người toàn diện. Cho nên "dù theo phương pháp và lề luật riêng, vẫn phải nằm trong giới hạn của trật tự luân lý" (MV 64). Đó là hướng dẫn căn bản cho sinh hoạt kinh tế con người.
Câu 146: Nhà nước và các chủ xí nghiệp, các nhà đầu tư có trách nhiệm thế nào trong việc phát triển kinh tế?
Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm an ninh, tự do của cá nhân, quyền tư hữu và sự ổn định tiền tệ... là những điều kiện cần thiết cho sự phát triển.
Các chủ xí nghiệp và các nhà đầu tư cần có được lợi nhuận để bảo đảm việc đầu tư và cung cấp việc làm cho công nhân, nhưng họ cần quan tâm đến lợi ích của con người, chứ không chỉ đến lợi nhuận.
Câu 147: Giáo Hội dạy thế nào về quyền của con người đối với lao động và việc làm?
Câu 148: Giáo Hội dạy thế nào về việc xây dựng công bằng thế giới và tình liên đới giữa các dân tộc?
Ngày nay người ta chứng kiến sự cách biệt rất lớn giữa các nước giầu và các nước nghèo. Đang khi một số quốc gia càng lúc càng giàu hơn, thì nợ nần của các nước nghèo lại gia tăng. Và nhiều khi một quốc gia giàu có là vì đã tước đoạt tài nguyên thiên nhiên của các nước nghèo, bằng nhiều hình thức khác nhau.
Vì thế, Hội Thánh kêu gọi xây dựng công bằng thế giới, và tình liên đới giữa các dân tộc. Sự liên đới ấy không chỉ thể hiện bằng cách giúp đỡ trực tiếp, nhưng còn phải cải tổ cả cơ cấu của nền kinh tế thế giới, và phải hướng đến việc phát triển toàn diện của gia đình nhân loại.
Câu 149: Đâu là Kim chỉ Nam hướng dẫn Hội Thánh yêu thương người nghèo?
Ngay trong Cựu Ước, Dân Chúa đã có những biện pháp cụ thể để nâng đỡ người nghèo. Năm Toàn Xá với việc tha thứ nợ nần, trả lại đất đai.
Đến thời Tân Ước, tiếng gọi ấy càng khẩn thiết hơn: Đức Giêsu công bố hạnh phúc cho người nghèo, chính Ngài đã sống nghèo giữa những người nghèo, để chăm sóc cho họ, và Ngài vẫn hiện diện trong những người nghèo (x. Mt 25,31-36).
Vì thế, trong suốt lịch sử của mình, Hội Thánh luôn dành cho người nghèo tình yêu thương đặc biệt, không chỉ nghèo vật chất mà cả về tinh thần và tôn giáo.
Câu 150: Người Ki-tô hữu phải làm gì để thực hành đức yêu thương dành cho người nghèo?
Bài 12
Điều răn VIII: Tôn trọng sự thật
(x. SGLC từ 2464 đến 2513).
Câu 151: Đâu là lý do khiến chúng ta phải sống trong sự thật và làm chứng cho sự thật?
Câu 152: Người Ki-tô phải sống trong sự thật thế nào?
Người môn đệ Đức Giêsu phải là người yêu mến sự thật "có thì nói có, không thì nói không" (Mt 5,33); nghĩa là thành thật, chân thành trong lời nói cũng như trong việc làm, không giả hình, không gian dối.
Câu 153: Người Ki-tô phải làm chứng cho sự thật thế nào?
Câu 154: Đâu là những tội phạm chống lại sự thật?
Có những tội như: Thề gian, làm chứng dối; Không tôn trọng danh dự người khác; và nói dối
Câu 155: Những hành vi nào được kể là tội “Thề gian và làm chứng dối”?
Những hành động gây thiệt hại nghiêm trọng cho người khác, vì ảnh hưởng đến phán quyết của tòa án, dẫn đến chỗ kết án người vô tội, hoặc gia tăng hình phạt cho phạm nhân; hay ngược lại, đồng lõa với tội phạm.
Câu 156: Những hành vi nào được kể là tội “Không tôn trọng danh dự người khác”?
Có những hành vi như:
Câu 157: Tội “Nói dối” là gì và gây tác hại thế nào?
Nói dối là nói ngược với sự thật, khiến người khác bị lầm lạc, đang khi họ có quyền được biết sự thật.
Mức độ tội phạm có thể khác nhau, tùy theo bản chất lời nói dối, hoàn cảnh và ý định của người nói dối, cũng như thiệt hại mà lời đó gây nên cho người khác. Vì thế ở tự nó, nói dối chỉ là tội nhẹ, nhưng trong một số trường hợp, nó trở thành tội nặng vì đi ngược lại đức công bằng và đức ái.
Câu 158: Ta phải làm gì khi có những lỗi phạm đi ngược lại đức công bằng và đức bác ái?
Tất cả những lỗi phạm đi ngược lại đức công bằng và đức ái, đòi hỏi phải được đền bù, kể cả khi người có tội đã được tha thứ.
Khi không thể đền bù cách công khai, phải đền bù cách kín đáo. Đó là đòi hỏi của lương tâm.
Câu 159: Chúng ta có buộc phải nói sự thật trong mọi hoàn cảnh không?
Ta có bổn phận phải nói sự thật, nhưng đồng thời, trong một vài trường hợp cụ thể, Đức Ái đòi buộc ta phải cẩn trọng xem xét có nên nói sự thật cho người khác không, vì có thể dẫn đến những hậu quả không tốt.
Ích lợi và an ninh của người khác, tôn trọng đời tư, công ích: đó là những lý do đủ để ta có thể im lặng, không nói điều không nên nói, hoặc nói tránh đi. Không ai bị bó buộc phải nói cho người khác điều mà họ không có quyền biết.
Câu 160: Những trường hợp nào Luật buộc phải giữ kín, không được phép tiết lộ?
Có những trường hợp như:
Câu 161: Đâu là vai trò của các phương tiện truyền thông trong việc tôn trọng sự thật?
Những phương tiện truyền thông phải nhằm mục đích phục vụ công ích, đặt nền tảng trên sự thật, tự do, công bằng và tình liên đới.
Câu 162: Người tín hữu phải làm gì khi sử dụng các phương tiện truyền thông?
Người tín hữu phải tự tạo cho mình một kỷ luật và khả năng phán đoán, dựa trên thang giá trị của Tin Mừng, để biết đánh giá đúng mức và tiếp thu những gì tốt đẹp qua các phương tiện truyền thông. (x. TT 10).
Câu 163: Mỹ thuật Thánh đóng góp gì cho việc phục vụ sự thật?
Hội Thánh nhìn nhận rằng: "Trong những hoạt động cao quý nhất của tài năng con người, rất đáng kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo, mà tột đỉnh của nghệ thuật này chính là nghệ thuật Thánh" (PV 122).
Vì thế, từ việc xây cất nhà thờ, trưng bày ảnh tượng hay những tác phẩm tôn giáo, phải quan tâm xem xét để tất cả phục vụ cho chân lý Đức Tin "góp phần tích cực vào việc đạo đức, là hướng tâm người ta về cùng Chúa" (PV 122).
Câu 164: Người tín hữu phải làm gì để cổ võ cho sự thật?
Do ảnh hưởng của sinh hoạt xã hội, và nhiều khi do cả nền giáo dục chuộng hình thức, sự gian dối đã trở thành quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt.
Sự gian dối đó không những hủy hoại mối quan hệ người với người trong xã hội, mà còn hủy hoại chính ơn gọi làm người để "sống trong sự thật" (Rm 3,4).
Vì thế cho dẫu khó khăn, người Kitô hữu phải cố gắng và can đảm sống ngay thẳng, thành thật, chân thành với chính mình và với mọi người.
Câu 165: Hội Thánh có cái nhìn thế nào về các phương tiện truyền thông?
Từ năm 1966, Hội Thánh Công Giáo đã chọn lễ Thăng Thiên hàng năm làm ngày Quốc Tế về Truyền thông. Việc Đức Giêsu về trời gắn liền với sứ mạng trao ban cho Hội Thánh: Ra đi loan báo Tin Mừng. Trong thời đại bùng nổ thông tin này, Hội Thánh phải tận dụng mọi phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng (x.TT 3): Báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình.
Trong lĩnh vực này, cha mẹ có một vai trò rất quan trọng: "Phải nhớ mình có bổn phận tận tâm coi sóc, kẻo kịch ảnh, sách báo và những thứ cùng loại, trái nghịch với Đức Tin, trái thuần phong mỹ tục, lại lọt vào ngưỡng cửa gia đình; cũng đừng để con cái gặp những thứ đó ở nơi khác" (TT 10).
Bài 13
Điều răn IX: Thanh khiết trong tâm hồn
(x. SGLC từ 2514 đến 2533).
Câu 166: Tại sao ta cần phải sống thanh khiết trong tâm hồn?
Phải sống thanh khiết trong tâm hồn vì:
Câu 167: Trong đời sống cá nhân, ta phải làm gì để có thể sống thanh khiết?
Ai cũng có kinh nghiệm về những dục vọng xấu nội tại tâm hồn mình. Những dục vọng ấy là hậu quả của tội nguyên tổ. Bí tích Thánh Tẩy tha thứ mọi tội lỗi, nhưng những dục vọng xấu vẫn còn đó. Ta phải cố gắng chống lại bằng cách:
Câu 168: Trong đời sống xã hội, ta phải làm gì để có thể sống thanh khiết?
Môi trường xã hội hôm nay đầy rẫy những quyến rũ dâm ô: phim ảnh, báo chí, sách vở, hộp đêm... Thêm vào đó là chủ trương phóng túng về luân lý ngày càng phổ biến. Tất cả đều lôi kéo con người vào đường tội lỗi hơn là sống thánh thiện. Muốn giữ được tâm hồn thanh khiết, người Kitô hữu cần phải:
Bài 14
Điều răn X: Chớ tham của người
(x. SGLC từ 2534 đến 2557).
Câu 169: đâu là nguyên nhân sinh ra tham lam và ghen tị?
Ai đói cũng thèm ăn, ai lạnh cũng mong được sưởi ấm. Ở tự nó, những ham muốn này là tốt, vì giúp bảo vệ sự sống. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy con người không giữ được mức độ hợp lý trong những ham muốn này. Vì không giữ được mức độ hợp lý nên sinh ra tham lam và ghen tị.
Câu 170: Tham lam là gì?
Tham lam: là ham mê của cải, và thế lực do của cải đem lại; từ đó có thể làm điều bất công hại đến tài sản người khác. Vd: Những nhà buôn mong hàng hóa khan hiếm và đắt đỏ, những kẻ mong người khác gặp hoạn nạn để thu lợi...
Câu 171: Ghen tị là gì?
Ghen tị: là buồn phiền khi thấy người khác có của cải và ước ao chiếm đoạt.
Thánh Âu Tinh coi ghen tị là tội quỉ quái nhất, vì "ghen tị sinh ra thù ghét, nói xấu, vu khống, vui khi thấy kẻ khác gặp hoạn nạn, buồn khi thấy kẻ khác được may lành".
Thánh Gioan Kim Khẩu nói quyết liệt hơn: "Chúng ta đấm đá nhau chỉ vì ghen tị... Nếu mọi người đều xâu xé nhau như vậy thì thân thể Chúa Kitô sẽ ra sao? Chúng ta đang làm tan nát Thân Thể Chúa Kitô".
Câu 172: Ta phải làm gì để vượt qua những ham muốn bất chính?
Ta phải làm hai điều này: Một là: Điều chỉnh những ước muốn cho đúng đắn. Hai là: Tập sống tinh thần nghèo khó.
Câu 173: Làm thế nào để có thể điều chỉnh ước muốn cho đúng đắn?
Câu 174: Làm thế nào để có thể sống tinh thần nghèo khó?
BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN GPTB
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về Giáo Phận Thái Bình
Đang online: 91 | Tổng lượt truy cập: 9,443,147