(Cv 2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31)
NIỀM TIN PHỤC SINH
“Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay làm nổi bật điểm thần học mấu chốt của Kitô Giáo: Đức Giêsu Kitô đã chết và đã phục sinh. Những ai tin vào Người thì được cứu độ, nghĩa là được sự sống đời đời.
1. Bài đọc 1
Đoạn sách Công vụ Tông Đồ mô tả cuộc sống cộng đoàn của những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, trong đó phác họa những điểm chính yếu của một cộng đoàn Kitô hữu, đó là lắng nghe lời rao giảng, tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện và chia sẻ vật chất.
Nghe rao giảng: Các tín hữu chuyên chăm nghe lời rao giảng và chứng tá của các môn đệ về một Đức Giêsu đã chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại, giải thoát khỏi những đau khổ của cái chết và được đặt làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô (Cv 2,23-24.36). Đức Giêsu mà người ta cho là đã chết như một con người thì các môn đệ khẳng định đó là Đức Chúa, là Đấng vẫn sống và đang sống giữa các tín hữu.
Dự lễ bẻ bánh: Trong bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu đã cử hành việc bẻ bánh và nhắc các môn đệ hãy tiếp tục việc cử hành này mà tưởng niệm cuộc hiến tế của Người (Lc 22,19; 1 Cr 11,24-25). Chính nhờ việc nghe giảng giải Kinh Thánh và nhất là việc bẻ bánh mà hai môn đệ trên đường Emmaus nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh (Lc 24,30-32). Giờ đây, khi Chúa Giêsu đã về trời, các tín hữu tiên khởi tưởng nhớ và cảm nhận sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh ở giữa họ, đồng thời được thông phần sự sống thần linh của Ngài khi họ tham dự lễ bẻ bánh.
Cầu nguyện và chia sẻ vật chất: Khi cùng chia sẻ niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, các tín hữu cùng hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện, kết hợp mật thiết với nhau trong tình huynh đệ, cũng như chia sẻ của cải vật chất cho nhau; họ đồng tâm nhất trí trong việc ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến (Cv 2,44-47). Đời sống hiệp nhất trong tinh thần cầu nguyện và sẻ chia của cải vật chất, đã trở thành chứng tá sống động về một đời sống mới được canh tân nhờ sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh.
Tóm lại, chính niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã nối kết các tín hữu và biến đổi họ thành cộng đoàn của yêu thương, chăm chú nghe lời rao giảng, hiệp thông trong cầu nguyện và không màng đến của cải vật chất. Đó là một cộng đoàn của những người được cứu độ (Cv 2,47b).
2. Bài đọc 2
Tác giả thư thứ nhất Phêrô cất lời ca tụng Thiên Chúa vì nhờ tình thương vô bờ của Ngài, Đấng đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, mà các tín hữu được ơn tái sinh, nghĩa là được Thiên Chúa ban cho sự sống mới bởi Thần Khí (x. Ga 3,3-5; 20,22).
Nhờ ơn tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh, các tín hữu được lãnh nhận niềm hy vọng sống động. Đó là niềm hy vọng về ơn cứu độ được biểu lộ qua việc phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết. Niềm hy vọng này “sống động” vì dấu hiệu của sự tái sinh (hay ơn cứu độ) chính là sự sống được trao ban cho các tín hữu do lòng thương xót của Thiên Chúa. Hơn nữa, ơn tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh cho các tín hữu được hưởng gia tài cao quý. Nếu như đối với Israel gia tài là Đất Hứa, thì đối với Hội Thánh, những người thuộc về Đức Kitô, thì gia tài đó chính là Nước Trời; gia tài này là thứ không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai, chỉ dành cho những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh (1 Pr 1,3-5).
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh là bảo đảm cho các tín hữu niềm hân hoan vui mừng khi họ được ân thưởng trong thời cánh chung, khi Đức Kitô trở lại. Tuy thế, niềm tin đó không miễn cho họ những gian nan thử thách trong cuộc sống hiện tại. Họ cần bày tỏ sự trung tín với Đức Kitô ngay trong những thách đố của cuộc sống đức tin. Chính những gian nan thử thách sẽ tinh luyện đức tin họ, nhờ đó “khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” (1 Pr 1,7); họ sẽ được “chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang”, khi họ “nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1,8-9).
3. Bài Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng Gioan mặc khải một vài điểm thần học quan trọng về Đức Kitô Phục Sinh: Người là Đấng đem lại bình an và là Đấng sai các môn đệ ra đi; Người cũng là đối tượng của niềm tin, một niềm tin dẫn tới sự sống đời đời.
Trước hết, Đức Giêsu Phục Sinh là Đấng đem lại bình an. Ba lần trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chúc bình an cho các môn đệ (Ga 20,19.21.26). Bình an ở đây không phải là thứ bình an vì không có gian nan, thử thách, đau khổ nhưng là thứ bình an vì có Chúa Phục Sinh hằng ở cùng. Việc gặp Đức Kitô Phục Sinh không làm cho các môn đệ hết sợ người Do Thái; bằng chứng là tám ngày sau lần hội ngộ đầu tiên cùng Thầy, các môn đệ vẫn lo sợ đóng kín cửa. Và có lẽ đó là lý do để Chúa Phục Sinh khẳng định lại một lần nữa rằng sự hiện diện của Người đem lại “bình an cho anh em” (Ga 20,26).
Tiếp đến, Đức Giêsu Phục Sinh là Đấng sai các môn đệ ra đi, nhờ sức mạnh của Thần Khí, để tiếp tục sứ mạng của Người. Tác giả Tin Mừng thứ tư cho thấy rằng sứ mạng này bắt nguồn từ Chúa Cha: Như Chúa Cha sai Đức Giêsu và ban Thần Khí trên Người (x. Ga 1,32-34), Đức Giêsu cũng sai các môn đệ (x. Ga 17,18) và ban Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Cũng như Thiên Chúa đã ban sự sống bằng cách thổi sinh khí vào con người (St 2,7; Ed 37,5.9), Đức Kitô Phục Sinh cũng “thổi hơi” mà ban Thần Khí cho các môn đệ. Các ông nhận lấy Thần Khí của Người để được hiệp thông vào quyền năng mang lại sự sống Thần Khí cho những ai tin vào Người nhờ sứ mạng của các ông. Như vậy, bóng dáng Chúa Ba Ngôi in đậm trong sứ mạng của các môn đệ.
Sau cùng, Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh rằng Đức Kitô Phục Sinh là đối tượng của niềm tin và nhờ tin mà được sự sống đời đời. Niềm tin khởi đầu với việc thấy; thấy mới tin: Khi được Đức Giêsu Phục Sinh “cho xem tay và cạnh sườn” của Người, các môn đệ “vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20); rồi các ông khoe với ông Tôma, người vắng mặt hôm đó, rằng họ đã “được thấy Chúa” (Ga 20,25). Trong khi đó ông Tôma còn đi xa hơn; ông không những đòi hỏi phải “được thấy”, mà còn phải “được sờ” những vết thương của Đức Kitô Phục Sinh thì mới tin. Đáp lại, Đức Kitô Phục Sinh bảo ông Tôma “đừng cứng lòng, nhưng hãy tin” sau khi cho ông “được thấy, được sờ”; đồng thời, Người lại tha thiết mời gọi và chúc phúc cho những ai “tin” mà không đòi hỏi phải “được thấy”. Từ đó trở đi, đức tin không dựa trên những kinh nghiệm cụ thể về Đức Kitô Phục Sinh hiện ra, nhưng trên lời chứng của các Tông Đồ là những người đã thấy và đã tin.
Tin Mừng thứ tư khép lại với lời tuyên tín quan trọng, như là một tóm kết chủ đạo cho toàn bộ Tin Mừng thứ tư, rằng tất cả những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh thì sẽ “nhờ tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Sách Công vụ Tông Đồ cho thấy rằng Đức Kitô Phục Sinh là điểm quy chiếu và hiệp thông của các tín hữu tiên khởi qua việc nghe các môn đệ rao giảng, tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện và chia cơm sẻ áo. Đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã làm thay đổi hoàn toàn cách sống của các tín hữu sơ khai. Ngày nay Đức Kitô Phục Sinh vẫn thôi thúc các Kitô hữu khắp nơi qui tụ quanh bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, lắng nghe giáo huấn của Hội Thánh và sống tinh thần chia sẻ vật chất với anh chị em mình.
2/ Thư thứ nhất Phêrô nói đến niềm “hân hoan vui mừng”, mặc dù còn phải chịu “ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách” (1 Pr 1,6). Đức Kitô Phục Sinh mang lại niềm vui lớn lao cho những ai tin vào Người, vì được tràn trề niềm hy vọng vào ơn cứu độ muôn đời. Tuy vậy, niềm tin và hy vọng đó không miễn cho các tín hữu khỏi những thách đố trong đời sống đức tin. Trái lại, những thử thách trong đời sống thường ngày là cơ hội để các tín hữu cảm nhận sâu xa hơn niềm “hân hoan vui mừng” lớn lao mà Chúa Kitô Phục Sinh mang lại và sẽ được bày tỏ cách tròn đầy trong thời cánh chung.
3/ Các Tông Đồ là những người đã được thấy Chúa Kitô Phục Sinh và đã tin; các ông được ban Thánh Thần và được sai đi làm chứng về niềm tin đó và các ông cũng đã sẵn sàng trả giá bằng chính mạng sống của mình để bảo vệ đức tin. Tác giả Tin Mừng thứ tư làm chứng rằng: những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh thì sẽ nhờ tin mà được sự sống. Mỗi Kitô hữu đều là những môn đệ được Chúa Giêsu Phục Sinh ban Thánh Thần và được sai đi làm chứng rằng Đức Kitô Phục Sinh, nguồn bình an, niềm vui và hy vọng chắc chắn cho sự sống đời đời.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Kitô Phục Sinh chính là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại; Ngài luôn hiện diện giữa thế giới để ban bình an và củng cố đức tin cho các tín hữu. Chúng ta cùng chúc tụng Chúa và dâng lời cầu nguyện:
1. Chúa Phục Sinh phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các mục tử trong Hội Thánh được tràn đầy Thánh Thần của Chúa Phục Sinh, để các ngài chu toàn sứ mạng dẫn dắt đoàn chiên Chúa trao phó.
2. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đưa con người đến sự sống đời đời. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các dân tộc và quốc gia trên thế giới còn xa lạ với đức tin Kitô giáo, được nghe loan báo Tin mừng Phục sinh, và tin nhận Đức Kitô là “sự thật và là sự sống”.
3. Chúa Phục Sinh đã ban tặng bình an cho các Tông Đồ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người ở khắp nơi trên thế giới đang lo âu và đau khổ vì dịch bệnh, biết tin tưởng vào lòng Chúa thương xót, để được Chúa cứu chữa và luôn sống trong bình an.
4. “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện và ân huệ của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống, để hết lòng yêu thương phục vụ tha nhân là hình ảnh của chính Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban Thánh Thần giúp chúng con luôn can đảm và hăng hái làm nhân chứng cho Đức Kitô Phục Sinh giữa thế giới hôm nay. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Nguồn: tgpsaigon.net
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về Giáo Phận Thái Bình
Đang online: 143 | Tổng lượt truy cập: 4,043,139