Giáo lý viên hành hương trong hy vọng (Bài chia sẻ của Lm Đa-minh Nguyễn Văn Thụ với Giáo lý viên và Huynh trưởng Giáo phận Thái Bình)

  • 26/07/2025
  • Giáo lý viên phải là người đặt hy vọng vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, luôn nối kết với Chúa, có Chúa trong lòng. Giáo lý viên nên nhớ, dù không còn ai chấp nhận mình, không còn ai lắng nghe mình, không còn ai coi trọng, yêu thương mình, thì vẫn còn có Chúa. Cho nên, chúng ta không bao giờ được vô vọng.

     

    Giáo lý viên hành hương trong hy vọng

    (Bài chia sẻ với giáo lý viên và huynh trưởng giáo phận Thái Bình)

    Tin mừng: Mc 12, 38-44

    Trong lúc giảng dạy, Đức Giêsu nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng.

    Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”

    Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.

    Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma.

    Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.

    Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”

    Về số lượng thì số tiền của bà goá quá ít so với số tiền của người giàu. Nhưng tấm lòng và tình yêu của bà goá thì lớn hơn của những người giàu. Bà quảng đại cho đi hết những gì mình có, trong khi người giàu chỉ cho đi cái dư thừa. Vì thế, Đức Giê-su khen ngợi bà goá. Đức Giê-su không đánh giá dựa trên số lượng và hiệu quả của công việc, mà dựa trên tình yêu chúng ta đặt để trong hành động của mình.

    I - HY VỌNG

    - Hy vọng là gì?

    Là mong chờ, tin tưởng, làm việc để tương lai/ngày mai sẽ tốt đẹp hơn. Ví dụ, các bạn trẻ hy vọng sẽ học giỏi, đậu đại học, kiếm việc làm tốt, được chấp nhận, được yêu, được nổi tiếng, có khi còn hy vọng lấy đại gia...

    Càng cao tuổi người ta càng ít về vọng về bản thân mình hơn, vì họ hết tuổi phấn đấu, lập nghiệp. Lúc đó họ nghĩ về quá khứ, sống hoài niệm về thời trai trẻ oanh liệt. Cho nên, người cao tuổi khi gặp nhau hay ôn lại quá khứ.

    Khi không còn hy vọng về mình, người cao tuổi đặt niềm hy vọng vào con cái, cháu chắt. Mong cho con cháu thành đạt, và lấy hạnh phúc của con cháu làm của mình.

    Nhưng đôi khi người trẻ có hy vọng hão huyền/ ảo tưởng. Phương trâm “việc nhẹ lương cao” là một kiểu của hy vọng hão huyền. Chúng ta cần nhớ, thường thì thành quả luôn tỉ lệ thuận với cố gắng của chúng ta. Làm nhiều, ăn nhiều; làm ít ăn ít; không làm thì không có ăn (tiếng Anh: no pain, no gain).

    Cách suy nghĩ “việc nhẹ lương cao” rất có hại. Nó làm cho chúng ta không muốn cố gắng nữa, mà muốn ngồi mát ăn bát vàng, coi thành quả như một món quà trên trời rơi xuống. Chúng ta muốn giàu nhanh mà không muốn làm, do đó, tìm đủ mọi cách giầu nhanh. Và rối việc gì sẽ xảy ra? Đánh bạc, lừa đảo (công nghệ cao), đa cấp tài chính, bán rẻ phẩm giá… Kết quả, nhà tù hay tán gia bại sản (có khi bị bán sang Campuchia) là điều không tránh khỏi.

    • Tầm quan trọng của hy vọng

    Chúng ta không thể sống nếu không có hy vọng. Nếu chúng ta tin rằng ngày mai tôi sẽ tốt hơn, thì đó chính là động lực để sống, và sống vui. Còn nếu mỗi ngày trôi qua sẽ tệ hơn, thì chúng ta sẽ lê những bước chân nặng nề trong cuộc sống. Chúng ta còn sống mà như đã chết hay xác chết di động, vì không còn niềm vui, niềm mong đợi, không còn ý nghĩa đề tồn tại.

    Những người tự tử  là vì sao? Vì họ tuyệt vọng, không còn thấy lí do mình ở trên cõi đời nữa, nên lấy cái chết để thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng này.

    II - GIÁO LÝ VIÊN HY VỌNG VỀ BẢN THÂN

    - Có bao giờ bạn thất vọng về mình không?

    (Ngược với hy vọng) Bạn thất vọng, buồn phiền, càu nhàu, thầm chửi chính mình. Vì sao vậy? Vì cho rằng mình thấp kém. Mình trách cứ bản thân: sao mình không đẹp như nó? Sao mình không giỏi như nó? Sao mình không có duyên như nó? Sao mình không được thương mến như nó?

    Bạn không dám tin vào bản thân mình. Và rồi kết qủa ra sao? Bạn không dám nói, vì sợ bị cười: đọc sách thánh cũng không dám. Bạn ao ước muốn dạy giáo lý, nhưng lại không dám đứng lớp vì sợ các em không hiểu. Những buổi họp giáo lý viên, bạn giữ thinh lặng, dù có nhiều suy nghĩ hay trong lòng. Và rồi bạn ấm ức vì quyết định của cuộc họp không theo suy nghĩ của bạn.

    Bạn không dám làm gì vì sợ sai, bị chê cười. Bạn tự nhủ tôi làm sẽ hỏng hết mọi chuyện. Và rồi bạn sẽ bị vụng về, đông cứng.

    - Bạn phản ứng ra sao?

    Bạn ghét chính mình. Từ bên trong có cuộc xung đột. Và nó thể hiện ra bên ngoài bằng bất an, khuôn mặt cau có, căng thẳng. Và bây giờ thử tượng tượng khi đi dạy giáo lý mà mang tâm trạng đó, học sinh có nhận ra bạn đang rao giảng Tin Mừng không?

    Trốn chạy bản thân. Bạn không dám đối diện với chính mình. Bạn cần những tiếng ồn ào để lảng tránh bản thân. Bạn xem phim, chạy xe bạt mạng, lướt facebook, ăn nhiều ngủ nhiều, có khi là bia rượu để quên đi nỗi thất vọng về mình.

    Lẩn tránh đám đông. Bạn thu mình trong vỏ ốc của mình. Bạn ở một mình trong phòng, không thích chỗ đông người. Và nếu có phải ra chỗ tập thể, bạn luôn luôn phòng vệ, chui vào vùng an toàn của mình, lúc nào cũng bật cơ chế tự vệ. Ban sẵn sàng nổi xung khi có ai góp ý, hay chạm vào vùng an toàn của bạn. Khi sống như vậy, bạn có nguy cơ tự kỷ.

    Nếu có phải làm gì, bạn luôn làm trong tâm trạng sợ hãi. Sợ nói, sợ làm, sợ người khác đang nhìn mình, tự cho rằng người khác đang dò xét mình. Và nỗi sợ hãi sẽ làm cho bạn kiệt sức.

    Bạn phải làm gì?

    - Tìm ra giá trị của mình. Ai cũng có điểm mạnh. Người Việt Nam thường nói: Ông Trời sẽ không cho ai tất cả, nhưng cũng chẳng lấy đi tất cả của ai. Ví dụ, họ có khả năng thì mình có lòng nhiệt thành, hay họ có khả năng này thì mình có khả năng khác. Họ ăn nói giỏi, còn mình có lòng nhân ái. Họ năng động, còn mình có lòng chân thành…

    - Nhất là cách Thiên Chúa nhìn giá trị của bạn. Thiên Chúa gọi bạn vào đời, thì chắc chắn Ngài có một kế hoạch cho riêng bạn, bạn không cần giống ai. Chắc chắn bạn được Thiên Chúa yêu thương, và Ngài muốn bạn là chính bạn. Đó chính là phiên bản mà Thiên Chúa mong muốn.

    Như bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc, Thiên Chúa không nhìn bạn làm được bao nhiêu, bạn có khả năng tới mức nào, mà chính là tình yêu bạn đặt để trong công việc của mình.

    Cho nên, bạn cần lắng nghe, yêu thương, trân trọng, tự hào, và nhất là hy vọng về chính mình. Chỉ khi sống như vậy, bạn mới có thể dạy Giáo lý cho người khác, vì dạy Giáo lý cũng là một cách loan báo Tin Mừng. Mà loan báo Tin Mừng làm sao, khi bản thân mình không có bình an, vui tươi, hiền hoà.

    III - GIÁO LÝ VIÊN HY VỌNG VỀ CÁC EM

    - Câu chuyện về Thomas Edison, thiên tài với hơn 1500 phát minh và sáng chế.

    Vào khoảng năm 7 tuổi, một hôm cậu từ trường về nhà và nói với mẹ: "Mẹ, thầy giáo bảo con đưa cho mẹ cái này!".

    Cẩn thận mở ra xem, bên trong kèm lá thư của giáo viên chủ nhiệm gửi phụ huynh em Edison, nước mắt bà Nancy Elliott giàn giụa. Cậu bé đứng ngẩn người kinh ngạc, cậu hỏi mẹ rằng thầy giáo đã viết gì trong đó?.

    Ngập ngừng một lát, bà Nancy đọc to lá thư cho con trai mình: "Con trai của ông bà là một thiên tài! Nhưng ngôi trường này quá nhỏ, các giáo viên của chúng tôi không có đủ năng lực để dạy dỗ cậu bé. Bởi vậy, xin ông bà hãy tự kèm cặp con trai mình".

    Kể từ đó, Edison được mẹ, cũng từng là giáo viên ở Canada kèm cặp, dạy dỗ mà không đến trường thêm lần nào nữa.

    Nhiều năm sau đó, mẹ của Edison đã qua đời, còn con trai bà thì trở thành một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất thế kỷ 20, người được mệnh danh là "Thầy phù thủy ở Menlo Park" nhờ những sáng chế thiên tài cống hiến cho nhân loại.

    Một ngày, khi xem lại những kỷ vật của gia đình, Edison vô tình nhìn thấy một tờ giấy gập nhỏ được cất trong ngăn kéo bàn. Tò mò mở ra đọc, trước mắt cậu chính là lá thư của thầy giáo năm nào. Trong thư, có đoạn: "Con trai ông bà là đứa trẻ rối trí. Chúng tôi không thể chấp nhận cho trò ấy đến trường được nữa".

    Edison đã khóc hàng giờ sau khi đọc lá thư năm nào. Thiên tài viết trong nhật ký rằng: "Thomas Alva Edison là một đứa trẻ rối trí, vậy mà, nhờ có một người mẹ tuyệt vời, cậu đã trở thành thiên tài của thế kỷ".

    - Thomas Edison trở thành thiên tài là nhờ lúc nào ông cũng nghĩ như vậy. Ông mang trong mình một niềm hy vọng mình là thiên tài. Chính bà mẹ đã gieo vào ông niềm tin ấy. Và cuối cùng ông trở thành một thiên tài thật.

    Khi dạy giáo lý, giáo lý viên cũng phải biết hy vọng vào các em. Hy vọng các em sẽ trở thành người tốt, thành người có ích, đạo đức, ngoan ngoãn.

    Ngay cả với học viên cá biệt, giáo lý viên cũng phải hy vọng em đó thay đổi. Trái lại, nếu giáo lý viên mặc định em nào xấu thì chắc chắn em đó càng tinh nghịch, phá phách và xấu hơn.

    Có thể nói thế này, thái độ của giáo lý viên như một cái khuôn đúc. Nếu mình nghĩ em nào tốt thì em đó sẽ trở thành người tốt, còn nghĩ em nào xấu thì chắc chắn trở thành xấu. Cách nghĩ và thái độ của giáo lý viên làm nên các em học sinh.

    Cho nên, giáo lý viên không khi nào được mất hy vọng vào các em. Trái lại, luôn hy vọng các em sẽ tốt hơn, dù bây giờ chưa lý tưởng như mong đợi của giáo lý viên.

    Câu chuyện: Có một em rất tinh nghịch, nên khi khách đến nhà, cha mẹ luôn nói với khách cháu là đứa trẻ ngỗ ngược, và đuổi đi chỗ khác. Kết quả là, đứa bé ngày càng bất trị hơn. Một hôm, có nhà tâm lý đến chơi, và cũng được giới thiệu như vậy. Nhà tâm lý đề nghị: ông bà hãy cứ giới thiệu rằng cháu là đứa trẻ ngoan, siêng năng biết vâng lời. Một thời gian sau, đứa trẻ thay đổi trở thành đứa trẻ ngoan ngoãn, siêng năng thật.

    Đứa trẻ thay đổi vì cha mẹ mong đợi, và nó muốn đáp ứng niềm mong đợi của cha mẹ. Nếu mình lập trình cho đứa trẻ nên xấu, nó sẽ trở nên xấu; lập trình đứa trẻ nên tốt, nó sẽ nên tốt.

    IV - GIÁO LÝ VIÊN HY VỌNG NƠI CHÚA

    - Câu chuyện Đức hồng y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận

    Trong hai tác phẩm nổi tiếng Đường Hy VọngNăm Chiếc Bánh và Hai Con Cá, Đức hồng y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận kể về cuộc đời của ngài, đại khái:

    Ngày 24 tháng 4 năm 1975, ngài đã được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Phó Tổng Giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. tuy nhiên, ngay sau đó ngài bị chính quyền bắt và giam tù suốt 13 năm. Trong tù, dĩ diên ngài thất vọng. Ngài đã làm giám mục Nha Trang 13 năm, rồi được đặt làm Tổng giám mục Sài Gòn. Giờ đây, ngài không được gần gũi đàn chiên, không được thi hành sứ mạng của một giám mục. Tuy nhiên, ngài mau chóng lấy lại niềm hy vọng. Ngài đặt trọn vẹn mọi kế hoạch, dự định cho Thiên Chúa. Tưng giây từng phút ngài gắn bó với Thiên Chúa qua lời kinh, những suy tư, từng hơi thở, và thánh lễ. Trong tù, ngài vẫn dâng lễ với mấy giọt rượu và mẩu bánh trên bàn tay. Nhờ đó, Chúa Giê-su Thánh Thể thật sự ở trên tay ngài, ở trong lòng ngài khi ngài rước lấy. Chúng nhờ vậy, các tù nhân có thể rước và “chầu Thánh Thể.”

    Nhà tù: giam giữ ước mơ, tiêu diệt tự do, phá huỷ tương lai. Tù nhân bị đày đoạ cả thể xác và tinh thần, khiến cho họ bị tuyệt vọng, nên có khi tìm đến cái chết.

    Tuy nhiên, Thiên Chúa có ở trong nhà tù không? Nhà tù không tiêu diệt được Thiên Chúa, không ngăn cách được Ngài. Thiên Chúa vẫn ở đó, trong nhà tù, và còn gần gũi tù nhân hơn chúng ta.

    Đức hồng y bị giam trong tù 13 năm. Trong tù, ngài không tuyệt vọng, mà luôn hy vọng vào Chúa. Ngài gặp gỡ Chúa trong lời cầu nguyện. Ngài gặp ngỡ Chúa trong thánh lễ ngài dâng. Ngài đã biến nhà tù thành nhà nguyện nơi có thể gặp gỡ Thiên Chúa.

    Thậm chí trong tù ngài vẫn giới thiệu Chúa cho một số cai tù, nhờ gương sáng, nhờ dạy học, nhờ lời khuyên của ngài.

    - Giáo lý viên

    Glv phải là người đặt hy vọng vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, luôn nối kết với Chúa, có Chúa trong lòng. Giáo lý viên nên nhớ, dù không còn ai chấp nhận mình, không còn ai lắng nghe mình, không còn ai coi trọng, yêu thương mình, thì vẫn còn có Chúa. Cho nên, chúng ta không bao giờ được vô vọng. Như Đức hồng y, càng trong nghịch cảnh, giáo lý viên càng cậy dựa vào Thiên Chúa.

    Giáo lý viên không phải để dạy điều này điều kia, mà để mang thiếu nhi đến với Chúa và giới thiệu Chúa cho thiếu nhi. Để mang Chúa cho thiếu nhi, giáo lý viên phải thật sự có Chúa trong lòng.

    Nếu không có Chúa trong lòng, có khi trở thành giáo lý viên để:

    • Theo phong trào, a dua.
    • Thích được dạy dỗ các em, khẳng định bản thân.
    • Chụp ảnh, kết thân
    • Vì có người yêu ở trong phong trào
    • Sợ mình là người đứng ngoài, làm giáo lý viên cho giống người khác.

    Tóm lại, giáo lý viên trưởng phải là người sống hy vọng. Hy vọng là điều quan trọng, vì người ta không thể sống mà không có hy vọng. Họ hy vọng nơi bản thân. Đây là điều kiện cần thiết để làm một giáo lý viên. Thật vậy, chỉ khi hy vọng nơi mình, họ mới có bình an, có niềm vui để có thể dạy giáo lý hay loan báo Tin Mừng. Trên hết, giáo lý viên trưởng đặt hy vọng nơi Thiên Chúa. Chỉ khi có Chúa trong lòng mình mới có thể trở thành giáo lý viên, vì sứ vụ của họ là mang Chúa đến cho các em.

    Lm. Đa-minh Nguyễn Văn Thụ

    Bài viết liên quan