GIÁO PHẬN THÁI BÌNH
BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I
CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN GIÁO LÝ VIÊN CẤP 2
{
BÀI 1
TẠO DỰNG VÀ SA NGÃ
Câu 1: Đâu là những sứ điệp chính yếu mà tác giả muốn diễn tả trong St 1,1-2,4a?
Có những sứ điệp chính yếu sau đây:
Câu 2: Đâu là những sứ điệp chính yếu mà tác giả muốn diễn tả trong St 2,4b-35?
Có những sứ điệp chính yếu sau đây:
Câu 3: Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt đẹp, vậy đâu là lý do tội lỗi tràn vào trần gian?
Do sự xuất hiện của Sa-tan dưới hình con rắn. Chúng đã cám dỗ con người kiêu căng, bất tuân lệnh Thiên Chúa. Con người đã nghe theo và đã phạm tội bằng cách phản nghịch lại ý muốn của Thiên Chúa.
Câu 4: Hậu quả của tội nguyên tổ là gì?
Hậu quả của tội đã kéo theo hình phạt. Những gì xưa vốn là tốt thì giờ đây trở thành xấu: Con người được dựng nên để yêu thương và bổ túc cho nhau, thì nay A-đam đổ lỗi cho E-và; sự trần truồng xưa là tự nhiên thì nay trở thành xấu hổ; sinh đẻ là lời chúc phúc, thì nay thêm sự nặng nhọc; hậu quả nặng nề nhất là con người phải đau khổ và phải chết.
Câu 5: Sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa có bỏ rơi con người không?
Thưa không. Tình thương của Thiên Chúa không bị cản trở bởi tội lỗi. Ngài đã hứa ban Đấng Cứu Thế để giải thoát con người khi Ngài phán: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3,15).
Câu 6: Những hậu quả của tội là gì?
Hậu quả là: Ca-in giết A-ben; Sự tội của con trai Thiên Chúa và con gái loài người; Lụt hồng thủy và Tháp Ba-ben; Tuổi đời của nhân loại ngày càng giảm dần.
BÀI 2
DÂN TUYỂN CHỌN
Câu 7: Để thực hiện Lời Hứa Cứu Độ, Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ram thế nào?
Chúa chọn Áp-ram trong một gia đình ở thành Ur, xứ Can-đê trên bờ vịnh Ba Tư và đưa đến một vùng đất Kha-ran xa lạ ở phía Bắc Xi-ry-a, lúc đó ông đã 75 tuổi. Thiên Chúa đã hứa cho ông làm cha một dân tộc đông đúc; một giải đất làm sản nghiệp và ông trở nên lời chúc phúc cho muôn dân.
Câu 8: Thiên Chúa đã thử thách Áp-ram thế nào?
Mặc dù Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trời, cát biển, nhưng thực tế thật nghiệt ngã. Sa-ra – vợ ông son sẻ, vợ chồng ông đều đã cao niên. Ngày tháng trôi qua, Áp-ram chẳng thấy có đứa con nào. Thiên Chúa đã lập lại lời hứa với ông bằng một giao ước. Ngài còn đổi tên cho ông là Áp-ra-ham nghĩa là “Cha của mọi dân tộc” trong khi, lúc đó, hai ông bà vẫn chưa có con. Khi Áp-ra-ham tròn 100 tuổi, Thiên Chúa ban cho hai ông bà một người con trai tên là I-xa-ác. Niềm vui chưa dứt, khi đứa bé được 12 tuổi, Thiên Chúa đòi ông phải hiến tế đứa con duy nhất đó cho Ngài. Tuy nhiên, trong tất cả những thử thách đó, Áp-ra-ham đều tin tưởng trọn vẹn vào lời Thiên Chúa. Vì thế ông được gọi là “Cha của những kẻ tin”.
Câu 9: Anh chị hãy tóm tắt về gia tộc của Tổ phụ Áp-ra-ham?
Tổ phụ Áp-ra-ham qua đời khi ông được 175 tuổi. Thiên Chúa đã giữ lời hứa với ông. Ngài cho dòng dõi ông ngày một trở nên đông đúc. Bà Rê-bê-ca sinh cho I-xa-ác được hai người con trai là E-xau và Gia-cóp. Nhờ sự trợ giúp của mẹ và sự mưu lược của bản thân, Gia-cóp đã dành được quyền trưởng nam từ E-xau – anh mình. Sau những ngày tháng lưu lạc, Gia-cóp giúp việc cho người bác là La-ban 14 năm để lấy được hai người con gái của ông là Lê-a và Ra-khen. Hai người vợ của ông và hai nàng hầu của các bà đã sinh cho ông 12 người con.
Người nổi bật nhất trong những người con của Gia-cóp là Giu-se, con bà Ra-khen. Tuy nhiên, chỉ vì ghen tức, các người anh của Giu-se đã bán ông cho người It-ma-en đem sang Ai-cập. Nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa, ông đã làm tới chức tể tướng, một vị trí chỉ sau vua Pha-ra-ô của Ai-cập. Cũng chính nhờ địa vị của mình, ông đã cứu thoát được cha và các anh em của mình thoát khỏi nạn đói và đưa cả gia đình sang Ai-cập sinh sống. Trước khi chết, Gia-cóp nhận hai người con của Giu-se là Ép-ra-im và Mơ-na-se làm con nuôi. Mười hai chi tộc Ít-ra-en được thành hình của 12 người con trai của Gia-cóp.
Câu 10: Anh chị hãy nêu lên những lý do khiến con cháu Ít-ra-en bị áp bức tại Ai-cập?
Sau khi Giu-se qua đời, con cái Ít-ra-en ngày càng trở nên đông đúc, khiến cho người Ai-cập cảm thấy khiếp sợ. Thêm vào đó, những người Hyksos - vốn đang cầm quyền tại Ai-cập - bị dân bản xứ lật đổ. Vì thế, Ít-ra-en bị thất sủng với chính quyền mới. Người Ai-cập đối xử với họ như những nô lệ. Họ phải lao dịch trong khổ nhục để xây dựng các Phi-thom và Ram-xét. Để kìm hãm sự lớn mạnh của Ít-ra-en, Pha-ra-ô ra lệnh tiêu diệt tất cả các con trai mới sinh của người Ít-ra-en.
Câu 11: Anh chị hãy nêu tóm tắt về Ơn gọi của Mô-sê?
Ngay khi vận mệnh của Ít-ra-en đang sa xuống vực thẳm, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân một vị cứu tinh đó là Mô-sê. Ông vốn là con của một gia đình Do Thái đang sinh sống tại đất Ai-cập. May mắn hơn các trẻ sơ sinh khác, ông được chính công chúa con vua Pha-ra-ô cứu thoát và được nuôi dưỡng trong triều đình. Mặc dù sống trong nhung lụa, nhưng ông vẫn ý thức về nguồn gốc Do Thái của mình. Trong một lần, vì bảo vệ người anh em đồng hương, ông đã ra tay giết hại một người Ai-cập. Khi chuyện bị bại lộ, ông đã phải trốn sang xứ Ma-đi-an. Một ngày kia, Thiên Chúa hiện ra với ông trên núi Khô-rếp dưới hình một đám lửa cháy giữa bụi gai mà bụi gai không bị thiêu rụi. Từ giữa đám lửa, Thiên Chúa gọi ông, mạc khải tên Ngài là Gia-vê, đồng thời trao cho ông sứ mệnh đưa dân của Ngài ra khỏi đất Ai-cập.
Câu 12: Anh chị hãy cho biết vai trò của Mô-sê trong Cuộc xuất hành Ai-cập?
Mô-sê trở lại Ai-cập và qua bàn tay ông, Thiên Chúa đã làm mười đại họa để buộc Pha-ra-ô phải phóng thích dân Do Thái. Trong đêm vượt qua, Mô-sê truyền lệnh mỗi gia đình phải giết một con chiên, lấy máu bôi lên khung cửa. Tất cả phải ăn bữa tối một cách vội vã, để sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào. Đêm ấy, Thiên Chúa đi qua xứ Ai-cập, và giết các con đầu lòng trong xứ, từ loài người cho tới loài vật. Tuy nhiên, Ngài đã vượt qua những cửa bôi máu chiên của nhà người dân Ít-ra-en, và họ được an toàn. Biết rằng có bàn tay Thiên Chúa can thiệp, nên Pha-ra-ô mới cho phép Ít-ra-en ra đi.
Khi dân Ít-ra-en rời đi, Pha-ra-ô liền đổi ý. Ông cho người tức tốc đuổi theo bắt lại, nhưng Thiên Chúa đã can thiệp bằng việc dùng cánh tay quyền năng của Ngài để xẻ đôi lòng biển Đỏ, cho dân Ít-ra-en băng qua. Trong khi, cũng chính nước biển Đỏ đã vùi lấp quân Ai-cập không sót một tên.
Khi dân đã qua Biển Đỏ, Mô-sê đưa dân Ít-ra-en đến núi Si-nai và dâng hy tế cho Thiên Chúa ở đó. Cũng chính qua hy tế và qua việc ký kết giao ước này mà dân Ít-ra-en đã trở nên dân riêng của Thiên Chúa.
Câu 13: Giao ước Si-nai được thực hiện thế nào?
Giao ước tại núi Si-nai đã biến Ít-ra-en thành dân của Thiên Chúa và Thiên Chúa sẽ là Chúa của Ít-ra-en. Người ban cho họ 10 điều răn được khắc trên 2 bia đá. Người còn dạy họ đặt 2 bia đá này vào một chiếc khám gọi là Khám Giáo Ước.
Để bảo chứng cho giao ước này, Mô-sê cho dựng 12 trụ đá thành một bàn thờ (tượng trưng cho 12 chi tộc Ít-ra-en). Ông lấy máu những con bò tơ, rảy một nửa trên bàn thờ - tượng trưng cho Thiên Chúa - và rảy một nửa trên dân chúng. Qua hành động tượng trưng này, Thiên Chúa và dân Ít-ra-en đã trở thành một gia đình, cùng một máu huyết.
Câu 14: Để tuân giữ những đòi hỏi của giao ước Si-nai, dân Ít-ra-en còn có những hy tế nào?
Để tuân giữ những đòi hỏi của giao ước Si-nai, dân Ít-ra-en còn có những hy tế:
1 - Lễ Toàn thiêu: Xuất hiện thời Quan Án. Toàn thể hiến vật được thiêu hủy hoàn toàn trên bàn thờ.
2 - Lễ Hiệp thông: Một phần hy lễ được tiêu hủy để thuộc về Thiên Chúa, chủ tể sự sống. Phần còn lại dành cho tư tế và người dâng lễ để họ chia sẻ với gia đình, bè bạn trong một bữa ăn, được gọi là “bữa ăn thánh”.
3 - Lễ xá tội: Nghi thức này diễn tả tâm tình sám hối và ước nguyện được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi.
Câu 15: Anh chị hãy nêu dung mạo của Mô-sê?
Câu 16: Tại sao nói: Mô-sê là tôi tớ và bạn thân của Thiên Chúa?
Từ khi chào đời cho đến khi về chung phần với tổ tiên, Mô-sê luôn được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc, dẫn lối. Do một ân huệ tuyệt vời, Thiên Chúa đã cho Mô-sê biết tên của Ngài. Chính khi đàm đạo với Mô-sê trong Nhà Tạm, khi phán truyền cho Mô-sê trong đám mây, Thiên Chúa tỏ ra là người bạn thân với Mô-sê.
Câu 17: Tại sao nói: Mô-sê là trung gian của giao ước?
Thiên Chúa ký giao ước với Ít-ra-en qua trung gian của Mô-sê; Ngài dùng ông để giải phóng Ít-ra-en khỏi Ai-cập… Và khi đến Si-nai, ông dâng hiến tế để ký kết giao ước với Thiên Chúa. Vì thế, ông được kể là hình bóng của Đức Ki-tô – Đấng Trung Gian của Giao Ước Mới hoàn hảo hơn.
Câu 18: Tại sao nói: Mô-sê là vị ngôn sứ duy trì giao ước và giáo huấn dân Chúa tuân giữ cách trung thành?
Việc thi hành sứ mệnh biến ông trở thành người đứng đầu trong số “những tôi tớ Thiên Chúa bị bách hại”. Nhiệm vụ quá nặng nề khiến ông đôi lúc phải kêu lên: “Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: 'Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng?'” (Ds 11,12). Một này kia, khi không chịu nổi sự bất tuân của dân, ông đã giảm sút đức tin, mất đi sự dịu hiền, ông đã bị Chúa sửa phạt.
Là ngôn sứ, Mô-sê đã bầu cử cho dân mà ông lãnh trách nhiệm. Ông cầu nguyện để Ít-ra-en chiến thắng kẻ thù và được Chúa thứ tha mọi tội lỗi. Nhờ đức ái nồng nàn, ông đã phác họa gương mặt của người Tôi Tớ Đau Khổ, sẽ bầu cử cho các tội nhân bằng việc gánh lấy những tội lỗi của họ. Thế nên, ông là hình ảnh tiên báo Đức Ki-tô, Mô-sê mới.
BÀI 3
QUỐC GIA VÀ VƯƠNG QUỐC ÍT-RA-EN
Câu 19: Dân Ít-ra-en đã chinh phục đất hứa thế nào?
Để tiến vào Đất Hứa, việc đầu tiên phải thực hiện là tiến qua sông Gio-đan ở biên giới phía Đông. Cuộc vượt qua sông Gio-đan cũng kỳ diệu như cuộc vượt qua Biển Đỏ. Lúc Khám Giao Ước khiêng đến bờ sông, nước sông ngừng chảy, dân Ít-ra-en đi qua sông mà vẫn còn khô chân. Khi lên bờ phía Tây thuộc lãnh thổ Ca-na-an, lễ Vượt Qua được cử hành. Khám Giao Ước được đặt vào lều tại Ghin-gan và ở lại đó khoảng 5 năm. Kể từ khi dân Ít-ra-en tiến vào đất hứa, man-na không còn rơi nữa, dân Ít-ra-en sống nhờ thổ sản địa phương.
Câu 20: Khi vào đất hứa, dân Ít-ra-en gặp phải những thử thách gì?
Đầu tiên, dân Ít-ra-en đánh chiếm thành Giê-ri-khô. Đó là một sự kiện đã thực sự xảy ra, nhưng được diễn tả theo chiều hướng phụng vụ. Được Giô-suê lãnh đạo, chuyện chinh phục đất hứa được kể lại là khá dễ dàng. Thánh ký nhìn nhận rằng, chính Thiên Chúa can thiệp và cuộc chinh phục này, vì Ngài luôn hiện diện và chiến đấu cho họ. Tuy vài ổ kháng cự vẫn còn kéo dài nhiều năm, đúng hơn là nhiều thế kỷ, nhưng trong vòng khoảng 50 năm, hầu hết cách thành trì xứ Ca-na-an bị lọt vào tay người Ít-ra-en.
Câu 21: Đâu là những lý do khiến dân Ít-ra-en có thể chiến thắng dân Ca-na-an và các dân tộc khá cách dễ dàng?
Cuộc chinh phục thành công vì nhiều lý do khác nhau, nhưng tựu chung lại, có 3 lý do chính yếu sau:
Câu 22: Thời kỳ các Thủ lãnh (Thẩm phán) diễn ra như thế nào?
Thời kỳ các Thủ lãnh (Thẩm phán) kéo dài khoảng 200 năm, bắt đầu từ khi Giô-suê chiếm đất Ca-na-an đến khi dân Ít-ra-en có vị vua đầu tiên là Sa-un. Mười hai thị tộc sống trong lãnh thổ của mình, làm thành một quốc gia không có vua. Họ thống nhất với nhau bằng bối cảnh một gia đình chung, nhất là bằng tôn giáo chung, tượng trưng bằng Khám Giao Ước được đặt tại Si-lô thuộc thị tộc Ép-ra-im.
Đây là một thời kỳ ít quan trọng về phương diện lịch sử cứu độ, ngoại trừ nó cho thấy việc dân Ít-ra-en thường xuyên vi phạm giới luật của Thiên Chúa bằng việc chạy theo các thần ngoại. Đó là lý do khiến họ bị Thiên Chúa trừng phạt. Ngài đã để cho các kẻ thù đến quấy phá. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc dân Ngài trong đau khổ. Ngài cho xuất hiện những vị Thủ lãnh để cứu dân khỏi tay kẻ thù, giúp dân trở lại với Thiên Chúa, tiếp tục trung thành tuân giữ giao ước.
Câu 23: Có bao nhiêu Thủ lãnh trong thời kỳ này?
Kinh Thánh kể tên 12 vị Thủ lãnh, gồm 6 vị thủ lãnh lớn (Ót-ni-ên, Ê-hút, Ba-rắc, Ghí-tôn, Gíp-tác và Sam-son) và 6 vị thủ lãnh nhỏ (Sam-ga, Tô-la, Giai-a, Íp-xan, Ê-lôn và Áp-đôn). Các Thủ lãnh không phải những thẩm phán như ta hiểu ngày nay, mà họ là những vị anh hùng dân tộc, có công giải phóng dân khỏi áp bức của ngoại bang. Họ đều là những người có tài quân sự, được Thiên Chúa chọn gọi và trao sứ mạng giải thoát dân.
Câu 24: Anh chị hay nêu lên những nét chính yếu trong cuộc đời của Sa-mu-en?
Ngoài 12 vị Thủ lãnh đó, Kinh Thánh còn nói tới Sa-mu-en. Sa-mu-en là con của ông En-ca-na và bà An-na. Cả hai ông bà đều đã già mà vẫn son sẻ, họ cầu xin Thiên Chúa ban cho một mụn con và được Thiên Chúa nhậm lời. Cậu Sa-mu-en được sinh ra khoảng năm 1090 tcn. Để giữ trọn lời khấn hứa với Thiên Chúa, bà An-na đã dâng con vào đền thờ để phục vụ Chúa bên cạnh Khám Giao Ước dưới sự bảo trợ của thầy tư tế Hê-li. Sau khi Hê-li qua đời, Sa-mu-en trở thành người lãnh đạo dân Ít-ra-en trong vòng 20 năm (1050-1030). Ông cũng là ngôn sứ truyền đạt thánh ý Thiên Chúa cho dân và dâng lời cầu nguyện của dân lên Thiên Chúa. Ông là vị Thủ lãnh cuối cùng đồng thời là vị ngôn sứ đầu tiên trong dòng ngôn sứ của lịch sử dân Ít-ra-en.
Câu 25: Đâu là lý do hình thành thời kỳ quân chủ tại Ít-ra-en?
Trong suốt thời kỳ Thủ lãnh, chính Thiên Chúa là vua trực tiếp cai trị dân Ít-ra-en. Thời Sa-mu-en, Khám Giao Ước bị quân Phi-li-tinh chiếm đoạt. Thánh điện ở Si-lô điều tàn. Dân Ít-ra-en mất niềm tin nơi Thiên Chúa, nhưng họ không nhận ra nguyên nhân hình phạt ập xuống trên họ là do sự bất trung của họ. Họ bị ảnh hưởng của dân lân bang cho rằng, vì không có vua cai trị để đối đầu với quân ngoại bang, nên họ cứ bị ức hiếp, thống trị. Họ mong có một vị vua như các dân tộc khác. Sa-mu-en cho rằng, chọn một người làm vua như thế là khước từ sự cai quản của Thiên Chúa, nhưng ông không thay đổi được lòng dân. Chúa phán bảo Sa-mu-en: “Ngươi cứ nghe tiếng chúng và đặt một vị vua trên chúng”.
Câu 26: Anh chị hay nêu lên những nét chính yếu về cuộc đời vua Sa-un?
Vâng theo lệnh Chúa, Sa-mu-en đã xức dầu phong Sa-un, con ông Kít, thuộc chị tộc Ben-gia-min làm vua đầu tiên của Ít-ra-en. Khởi đầu công cuộc cai trị, Sa-un rất thành công. Ông chấn chỉnh và thống nhất các lực lượng Ít-ra-en. Sau đó, ông giao chiến với quân Phi-li-tinh, đẩy lui chúng về xứ sở của chúng ở bờ biển phía Tây Pa-lét-tin. Tuy nhiên, càng về sau, vua Sa-un càng rời xa Đức Chúa, không sống đúng với đường lối huấn lệnh của Ngài. Trong trận đánh với quân A-ma-lếch, thay vì thực hiện việc tru hiến theo lệnh của Thiên Chúa, ông lại chiều theo ý dân, giữ lại một số con vật hảo hạng để dâng lên Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa đã truyền cho ngôn sứ Sa-mu-en truất phế ông: “Vì ông đã phế bỏ lời Gia-vê, nên Gia-vê đã phế bỏ ông, không cho ông làm vua nữa” (1Sm 15,22-23).
Bị truất phế khỏi ngôi vua, Sa-un ngày càng phạm nhiều tội chống lại Thiên Chúa. Từ bất tuân, ông đi đến chỗ hạ sát các tư tế. Vì ghen tị nên ông đã tìm mọi cách giết Đa-vít. Sau cùng, ông bị tử trận trong trận chiến với quân Phi-li-tinh tạ Ghin-bô-a (x. 1Sm 31,8). Dòng dõi của ông cũng chấm dứt, vì con cái ông không được lên ngôi kế vị. Người kế vị ông là Đa-vít.
Câu 27: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu về cuộc đời vua Đa-vít?
Khi được Sa-mu-en xức dầu tấn phong làm vua, Đa-vít - con trai út của I-sai - còn là một cậu bé chăn chiên. Cậu có “mái tóc hoe, đôi mắt xinh và dáng vẻ khôi ngô”. Từ đó, Đa-vít được vào cung điện để phục vụ vua Sa-un, đồng thời làm người bảo vệ cho vua. Cậu đã xin ra trận đối đầu với tên khổng lồ Gô-li-át người Phi-li-tinh. Đa-vít đã dùng chiếc ná phóng đá để hạ sát Gô-li-át, mang chiến thắng vinh quang về co Ít-ra-en. Nhưng cũng chính chiến công vẻ vang này đã mang lại cho Đa-vít biết bao phiền phức. Sa-un ghen với Đa-vít nên tìm cách giết hại ông. Tuy nhiên, Đa-vít vẫn một lòng kính trọng Sa-un vì vua là người được Thiên Chúa xức dầu.
Sau khi Sa-un qua đời, Đa-vít lên làm vua Ít-ra-en. Nhờ tài chính trị và quân sự, Đa-vít đã xây dựng một triều đại lừng lẫy nhất lịch sử Ít-ra-en. Để chấm dứt nguy cơ tranh chấp giữa hai miền Nam – Bắc, ông dời thủ đô từ Khép-rôn lên Giê-ru-sa-lem, đồng thời cho dời Khám Giao Ước về thành. Ông đã biến thủ đô Giê-ru-sa-lem trở thành trung tâm chính trị đồng thời là trung tâm tôn giáo của Ít-ra-en.
Nhưng cuộc đời ông cũng có những vết đen do tội lỗi. Ông đã ngoại tình với và Bát-se-va – vợ của U-ri-gia, tướng chỉ huy quân đội của ông. Khi biết bà có thai, Đa-vít đã tìm mọi cách để che giấu tội lỗi của mình. Ông đã ra lệnh đẩy U-ri-gia vào chỗ chết để chiếm Bát-se-va làm vợ. Qua ngôn sứ Na-than, ông đã nhận ra lầm lỗi của mình. Ông khiêm tốn chấp nhận mọi hình phạt từ nơi Chúa.
Cuộc đời Đa-vít có những nét lạ thường: Hào hùng và vinh quang nhưng cũng yếu đuối và tăm tối. Là một cậu bé chăn cừu, một chiến sĩ anh dũng, một thi sĩ, một đế vương, nhưng cũng đồng thời là một người tội lỗi, một người biết thống hối, một người cha nhân từ, một người bạn trung tín và một người sáng lập một triều đại huy hoàng. Xuyên qua nhiều thế kỷ, Đa-vít vẫn là biểu tượng và tiêu chuẩn cho các vị vua kế tiếp của Ít-ra-en.
BÀI 4
VƯƠNG QUỐC BỊ CHIA ĐÔI
Câu 28: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu về cuộc đời vua Sa-lô-môn?
Sa-lô-mon là con trai của vua Đa-vít với bà Bát-se-va. Ông được chọn lên kế vị theo quyết định của vua cha là Đa-vít. Ông có tài tổ chức quốc gia, quân đội, ngoại giao và thương mại. Ông là vị vua nổi tiếng khôn ngoan. Nhiều câu châm ngôn của ông được truyền tụng trong nhiều thế kỷ và được ghi lại trong sách Châm Ngôn và Thánh Vịnh. Ông là người xây dựng đền thờ Giê-ru-sa-lem theo ước nguyện của vua cha. Ông cũng có công kiện toàn những nghi thức phụng vụ.
Vinh quang của triều đại Sa-lô-môn được mọi người ca tụng, nhưng lại đi liền với sưu cao thuế nặng người dân phải gánh chịu để bù vào việc thâm hụt công quỹ. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến việc các chi tộc phương Bắc bất mãn và nổi loạn.
Ông có hàng ngàn thê thiếp, trong đó nhiều bà là người ngoại giáo. Các bà đã du nhập vào Ít-ra-en các thần tượng ngoại lai cùng với các nghi lễ của họ. Điều này dẫn đến việc Sa-lô-mon ngày càng xa rời Đức Chúa, chạy theo các thần ngoại. Vương quốc giàu mạnh của ông đã tan rã ngay sau khi ông qua đời khoảng năm 931tcn. Lịch sử dân tộc Ít-ra-en đi vào giai đoạn phân ly Nam-Bắc.
Câu 29: Anh chị hãy cho biết đâu là lý do vương quốc Ít-ra-en bị phân ly?
Sa-lô-mon xây dựng vương quốc Ít-ra-en giàu sang thịnh vượng, nhưng nào ông có thấy cảnh sự cao thuế nặng đang áp đặt trên dân chúng. Rơ-kháp-am lên kế vị vua cha. Ông còn non trẻ, lại thiếu khôn ngoan trong cung cách lãnh đạo, nên thay vì giảm thuế, giảm tô, ông lại đánh nặng hơn, khiến người dân ngày càng cảm thấy bất mãn. Bên cạnh đó, mối thù âm ỉ về tài chính, thuế má giữa hai miền Nam-Bắc nay có dịp bùng phát.
Nhân cơ hội này, Gia-róp-am, một người thuộc chi tộc Ép-ra-im, đã lãnh đạo các chi tộc miền Bắc nổi dậy chống Rơ-kháp-am và đòi ly khai. Vương quốc bị chia đôi. 10 chi tộc phía Bắc lập thành vương quốc Ít-ra-en nằm dưới sự lãnh đạo của Gia-róp-am. 2 chi tộc phía Nam lập thành vương quốc Giu-đa nằm dưới sự lãnh đạo của Rơ-kháp-am.
Câu 30: Theo anh chị, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc phía Bắc (Ít-ra-en)?
Vương quốc Ít-ra-en ở phương Bắc luôn bị cám dỗ chạy theo khuôn mẫu các chế độ quân chủ của dân ngoại bang và thờ ngẫu tượng. Mặc dù đã được các ngôn sứ cảnh báo nhiều lần, nhưng xem ra, các vua, hàng tư tế và dân Ít-ra-en bịt tai không muốn nghe, cũng chẳng đón nhận. Chính vì vậy, Thiên Chúa đã phải dùng bàn tay của đế quốc Át-sua để dạy cho dân một bài học.
Ít-ra-en cầu cứu với Ai-cập, nhưng cũng chẳng thay đổi được tình thế. Thủ đô Sa-ma-ri của Ít-ra-en bị tấn công và bao vây trong vòng ba năm trước khi bị triệt hạ vào năm 721 tcn. Chúng bắt dân Ít-ra-en đi lưu đày và đưa các người ngoại bang vào định cư trên đất Ít-ra-en tạo nên một tôn giáo hỗn tạp. Dần dần, những người Ít-ra-en bị đồng hóa với các dân tộc nơi họ bị lưu đày.
Câu 31: Theo anh chị, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc phía Nam (Giu-đa)?
Trong khi Ít-ra-en rơi vào cơn khủng hoảng vì những cuộc thay ngôi đổi chủ liên tục, thì tại Giu-đa, xem ra có phần yên ổn hơn. Từ vua tới dân vẫn trung thành với đường lối huấn lệnh của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là hình thức bên ngoài, thực tế, đời sống tôn giáo còn nặng tính hình thức, Giu-đa vẫn mang nhiều tội lỗi và thiếu sót như: bất công xã hội, bóc lột người nghèo, sùng bái ngẫu tượng.
Các vị vua thay nhau lên cai trị Giu-đa. Có vị nhiều vị trung thành với Chúa và hướng dẫn dân thực thi đường lối Chúa, nhưng cũng không thiếu những vị vua chỉ lo chạy theo ngoại bang, sùng bái ngẫu tượng và thi hành những điều ghê tởm. Các ngôn sứ như I-sai-a, Mi-kha đã lên tiếng tố giác những lầm lỗi của dân, nhưng họ đều bỏ ngoài tai. Không những thế, họ còn chê cười rồi bắt bớ các ngôn sứ của Chúa.
Năm 598 tcn, vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-nô-đô-xô lên ngôi. Ông đã bắt vua Giu-đa là Gio-a-kim cùng các thành phần ưu tú của Giu-đa phải đi lưu đày. Năm 587 tcn, một lần nữa, Giu-đa bị Ba-by-lon tấn công. Lần này, chúng cho phá hủy đền thờ Giê-ru-sa-lem, bắt cả vua lẫn dân đi lưu đày.
BÀI 5
SỨ VỤ CỦA CÁC NGÔN SỨ
Câu 32: Ngôn sứ là ai?
Tiếng Do Thái gọi ngôn sứ là Na-bi có nghĩa là “gọi” hay “loan báo”. Na-bi cũng có nghĩa là người được gọi hay người loan báo. Như vậy, ngôn sứ là sứ giả nói lời của Thiên Chúa.
Câu 33: Ngôn sứ có vai trò gì?
Vai trò chính yếu của các ngôn sứ là chuyển tải sứ điệp Thiên Chúa trao phó. Những sứ điệp này, có thể là lời cảnh báo, lên án, đe dọa, khiển trách…, nhưng cũng có lúc là những lời khen ngợi hay an ủi, khích lệ động viên... Ngôn sứ truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa không chỉ bằng lời hay bằng hành động mà còn bằng chính cuộc sống của mình.
Câu 34: Nội dung Sứ điệp của ngôn sứ gồm những gì?
Nội dung sứ điệp mà các ngôn sứ loan báo có 5 điểm chính:
Câu 35: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ Ê-li-a (860 tcn)
Cuộc đời của Ê-li-a được ghi lại trong Sách Các Vua. Trước hết, về thân thế, Ê-li-a là người Tít-be, sống ở vương quốc phía bắc Ít-ra-en dưới thời cai trị của vua A-kháp và A-cha-xia, (x. 1V 17-19 và 2V 1-2). Thiên Chúa kêu gọi Ê-li-a trở thành ngôn sứ nhằm tái lập sự thờ phượng tinh ròng trên đất Ít-ra-en qua việc chống lại sự pha trộn các yếu tố từ các tôn giáo khác, do vua A-kháp và nữ hoàng độc ác I-de-ven cổ vũ. Để chu toàn sứ mạng này, Ê-li-a phải chiến đấu với các tà giáo, nhất là tà giáo Ba-an mà cuộc đối đầu của ông với các tiên tri giả của Ba-an là một trong những hình tượng hết sức mạnh mẽ trong Cựu Ước.
Câu 36: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ Ê-li-sa (840 – 800 tcn)
Ông là phụ tá và là người kế vị ngôn sứ Ê-li-a. Ông cũng lên tiếng chống lại lực lượng sự ác trong vương quốc Ít-ra-en. Ông làm phép lạ cho người bệnh được khỏi, người chết sống lại. Các nhà chú giải nhìn thấy nơi Ê-li-sa hình ảnh tiền hô của Đức Ki-tô, Đấng chiến thắng thần chết và tội lỗi, Đấng chữa lành bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
Câu 37: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ A-mót (750 tcn)
A-mốt là một vị ngôn sứ văn sĩ đầu tiên sống vào thế kỷ VIII trước Công nguyên, tức sau biến cố đau thương - đất nước chia đôi hàng thế kỷ (933 tcn). Ông sinh sống ở Miền nam - vương quốc Giu-đa bằng nghề chăn nuôi, trồng trọt nhưng được Đức Chúa bắt đi thi hành Sứ vụ ở phương Bắc- vương quốc Ít-ra-en, thời vua Gia-róp-am II trị vì (786-746 tcn). Vượt qua lớp son hào nhoáng (có vẻ) phồn vinh ấy, hơn ai hết A-mốt nhìn ra được sự thối nát của đất nước và hiểm hoạ Át-sua đang lớn dần, vì lối sống hưởng thụ, bởi những bất công, áp bức người nghèo, người ngay chính… Thi hành sứ vụ của Đức Chúa, A-mốt lên tiếng tố cáo mạnh mẽ một xã hội đầy dãy bất công, gian tham, thờ phượng giả dối, đồng thời tuyên cáo những án phạt khủng khiếp đang treo trên sợi tóc nếu không cấp thiết sám hối. Ông cũng kêu gọi mọi người biết tôn trọng công lý, công bằng và trở về với Thiên Chúa.
Câu 38: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ Hô-sê (745 – 720 tcn)
Ông là người thuộc vương quốc phía Bắc. Ông khởi đầu cuộc rao giảng dưới triều Gia-róp-am II và kéo dài trong nhiều triều vua kế tiếp. Ông loan báo sứ điệp của Thiên Chúa qua những sự kiện cuộc đời ông, nhất là cảnh sống hôn nhân. Hô-sê cưới một cô gái điếm tên là Gô-mê. Ông hết lòng yêu thương vợ, nhưng sau khi sinh cho ông mấy người con, bà bỏ đi với tình nhân của bà. Sau bà lại trở về với ông, ông vẫn một lòng yêu quý và đón nhận bà trở về. Hình ảnh bao dùng này nhằm diễn tả tình yêu thương của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en dân Ngài.
Sứ điệp ông muốn loàn truyền là tình thương diệu kỳ của Thiên Chúa: Yêu nhưng vẫn luôn bị chối từ và bội phản, tuy vậy Ngài vẫn cứ yêu. Thiên Chúa luôn trung thành trong giao ước tình yêu, bởi vì Ngài chính là tình yêu.
Hô-sê là người đầu tiên đã dùng hình ảnh tình yêu hôn nhân để diễn tả tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Ông còn lên tiếng kết án thứ tôn giáo vụ hình thức, chỉ chú trọng đến nghi lễ bên ngoài mà quên đi tình yêu mến phải có bên trong.
Câu 39: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ Mi-kha?
Ông là người Giu-đa, quê ở Mô-rê-xét, phía Tây Héc-mon. Ông được Chúa sai đi thi hành sứ vụ dưới thời các vua A-kháp và Ê-giê-ki-a, khoảng trước và sau khi Sa-ma-ri thất thủ (721 tcn) và có lẽ kéo dài tới 701 tcn. Ông cùng thời với ngôn sứ Hô-sê và I-sai-a. Nguồn gốc thôn dã miền quê khiến ông gần gũi với Hô-sê. Ngôn ngữ của ông đơn sơ, không chải chuốt, văn hoa.
Mi-kha ý thức rõ ơn gọi ngôn sứ của mình. Ông loan báo lời của Thiên Chúa và lời này là lời lên án. Thiên Chúa lên án dân của Ngài, bởi vì Ít-ra-en đã lỗi phạm đến Chúa, không tuân giữ các lề luật tôn giáo và luân lý.
Ông cũng cảnh báo những người giàu cướp bóc, chiếm tài sản của người khác; những người cho vay cách vô lương tâm; những con buôn gian lận; những gia đình chia rẽ; các tư tế và ngôn sứ giả tham lam; các thủ lãnh độc tài, các quan tòa ăn hối lộ. Và như thế Thiên Chúa sẽ xét xử và trừng trị dân Ngài.
Tuy nhiên, sứ điệp của ông vẫn mang một niềm trông cậy. Ông loan báo vị vua hòa bình sẽ sinh ra tại Bê-lem Ép-ra-tha. Ngài đến để chăn dắt đàn chiên của Gia-vê.
Câu 40: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ I-sai-a?
Ông sinh khoảng năm 765 tcn. Năm 740 tcn, ông lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ. Ông loan báo về sự sụp đổ của vương quốc Ít-ra-en và Giu-đa. Ông thi hành sứ vụ trong 40 năm, vào thời gian đế quốc Át-sua đang đe dọa và gây áp lực trên vương quốc Ít-ra-en và Giu-đa. Dựa vào lời văn trau chuốt của ông, chúng ta có thể nói, ông là con người có học thức. Ngoài ra, việc ông đi lại với triều đình, chứng tỏ ông có uy tín đối với các vua chúa thời đó.
Sứ điệp chính yếu của ông bao gồm:
Ngoài ra, còn phải kể đến 4 bài ca nói về Người Tôi Tớ của Gia-vê. Những bài ca này trình bày dung mạo của người tôi tớ sẵn sàng chịu chết để tẩy xóa tội lỗi toàn dân và được Thiên Chúa tuyên dương. Giáo Hội tiên khởi nhận ra nơi Đức Ki-tô – người tôi tớ đau khổ được I-sai-a loan báo. Chính Đức Giê-su cũng đã quy hướng những bài ca này về Người.
Câu 41: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ Giê-rê-mi-a?
Ông xuất thân từ một gia đình tư tế ở vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem khoảng một thế kỷ sau I-sai-a (650 tcn). Ngay từ khi còn trẻ, ông đã được Thiên Chúa kêu gọi. Ông báo trước sự sụp đổ của vương quốc bằng những lời lẽ đanh thép, nhưng không kết quả Ông là người chứng kiến cảnh sụp đổ của vương quốc Giu-đa. Cùng với đồng bào của mình, Giê-rê-mi-a trải qua giai đoạn bi đát nhất của lịch sử dân tộc.
Vốn là người đạo đức, bản tính hiền hòa, nhưng ông lại phải thực thi một sứ vụ gắt gao “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá”. Thế nên, tâm hồn ông luôn bị dằn vặt và đau khổ. Sứ vụ của ông dường như thất bại lúc sinh thời, nhưng ảnh hưởng của ông lại ngày càng lan rộng. Ông bị người đời chán ghét, chê bai, hãm hại, nhưng ông không chán nản. Tâm hồn ông vẫn hy vọng giữa những thương đau của cuộc sống.
Nội dung sứ điệp của ông nhắm đến lỗi phạm thờ ngẫu tượng, thứ tôn giáo vụ hình thức, thiếu tâm thành. Ông luôn mời gọi mọi người hãy đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu, đề cao mối tương quan thân mật với Thiên Chúa. Cuộc đời hy sinh quên mình, chấp nhận đâu khổ để phục vụ Thiên Chúa đã biến ông thành một dung mạo của Đức Ki-tô.
Câu 42: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ Ê-dê-ki-en?
Ê-dê-ki-en, tiếng Híp-ri có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho mạnh sức”. Ông ra đời khoảng năm 623 tcn, thuộc một gia đình dòng dõi tư tế. Ông là một ngôn sứ được Thiên Chúa gọi để loan báo lời của Ngài cho dân Ít-ra-en với những lời sấm ngôn và chính hành động, cử chỉ, sau cùng là chính mạng sống của mình. Do đó, những thử thách trong sứ vụ của ông như là một lời loan báo về vận mệnh của Ít-ra-en sẽ phải chia cắt đất nước của mình và rơi vào cảnh nước mất nhà tan. Theo truyền thống Do Thái, ông bị kết án tử hình bởi một vị thẩm phán đã từng bị ông khiển trách nặng nề.
Sứ điệp của ông có thể gồm tóm trong 3 điểm chính:
Câu 43: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu trong cuộc đời ngôn sứ I-sai-a đệ nhị?
I-sai-a đệ nhị là một ngôn sứ vô danh. Ông được cho là tác giả của Is 40-55. Ông cùng với Ê-giê-ki-en là hai cột trụ vững chắc nâng đỡ và an ủi dân Giu-đa đang trong cảnh lầm than. Tác phẩm của ông được gọi là “Sách An ủi Ít-ra-en” vì chứa đựng những lời hứa cho tương lai Giu-đa và các dân nước. Ông còn đóng góp bốn bài ca về Người Tôi Tớ của Gia-vê (Is 42,1-7; 49,1-6; 50,4-9; 52,13-53). Ông cùng với Ê-dê-ki-en góp phần làm hồi sinh đời sống đạo đức nơi dân Chúa.
BÀI 6
THỜI KÝ LƯU ĐÀY
Câu 44: Anh chị hãy nêu vắn tắt về biến cố lưu đày?
Lưu đày ở Ba-by-lon là một biến cố đau thương trong lịch sử dân Do Thái. Vào thời xa xưa, phát lưu là một hình phạt thường được áp dụng cho dân tộc bị thất trận. Năm 721 tcn, cả vương quốc Ít-ra-en bị đi lưu đày. Năm 597 tcn, vua Na-bu-cô-đô-no-so bắt vua Giu-đa cùng những người ưu tú đưa sang Ba-by-lon. Năm 587 tcn, ông còn đem quân bao vây và công phá thành Giê-ru-sa-lem. Vương quốc Giu-đa sụp đổ, kinh đô bị phá hủy và đền thờ bị phá bình địa. Trong đau khổ, dân tự hỏi: Có Gia-vê Thiên Chúa hay không? Nếu có thì Ngài có bằng thần Mác-đúc của dân Ba-bi-lon không? Niềm hy vọng hồi hương chẳng biết bao giờ mới thành tựu, cảnh lưu đày xa xứ biết lúc nào mới chấm dứt? Phải đợi đến khi Ba-by-lon thất thủ với sắc chỉ của Ky-rô năm 538 tcn dân mới được trở về quê hương.
Câu 45: Anh chị hãy cho biết, đâu là nguyên nhân của cuộc lưu đày?
Đối với các sử gia vô thần, cuộc lưu đày Ba-by-lon chỉ là hậu quả của tình hình chính trị, vì các đế quốc luôn có tham vọng bành trướng lãnh thổ, nắm toàn quyền chỉ huy về chính trị, hóa và tôn giáo. Tuy nhiên, vì lịch sử Ít-ra-en là lịch sử thánh, nên biến cố này phải được nhìn dưới khía cạnh tôn giáo. Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Ít-ra-en, nhưng Ít-ra-en ngày càng phản bội giao ước. Các tiên tri đã được sai đến để can thiệp, nhắc nhở, cảnh báo, nhưng các vua Ít-ra-en và Giu-đa đã dẫn dân chúng vào con đường sùng bái ngẫu tượng, quên đi các điều kiện của giao ước. Có thể nói, từ vua chúa, tư tế cho đến dân chúng đều đã phạm tội, làm hoen ố nơi thánh và đền thờ. Chính tội lỗi là nguyên cớ dẫn đến cảnh lưu đày.
Câu 46: Anh chị hãy cho biết, đâu là những thử thách của dân Chúa trong cuộc lưu đày?
Cuộc phát lưu nơi đất khách quê người kéo theo muôn vàn đau thương khổ ải cho những người Do Thái lưu đày: Không được sống trên phần đất của cha ông, bị ngược đãi, sống kiếp nô lệ, mất tự do… Nhưng có lẽ, thử thách lớn lao hơn cả chính là thử thách trong đức tin: Thử thách niềm tin vào sự hiện diện quyền năng của Gia-vê; thử thách niềm tin vào sự trung tín của Ngài.
Câu 47: Anh chị hãy cho biết, đâu là những lợi ích của cuộc lưu đày?
Cuộc lưu đày Ba-by-lon kéo dài hơn nửa thế kỷ, bề ngoài là một sự thất bại đắng cay, nhưng dưới cái nhìn lịch sử cứu độ, đây là thời kỳ dân Chúa được thanh luyện. Quả vậy, thời gian lưu đày đã mang lại những lợi ích thiêng liêng rất cao quý cho người Do Thái.
BÀI 7
TỪ SAU LƯU ĐÀY ĐẾN CHÚA GIÊ-SU
Câu 48: Anh chị hãy nêu những nét chính yếu của cuộc hồi hương và tái thiết?
Năm 537 tcn, sau khi sắc lệnh cho hồi hương của vua Ki-rô được ban hành một năm, dân Do Thái bắt đầu trở về quê hương mình. Tuy nhiên niềm vui hồi hương từ từ nhường chỗ cho những khó khăn phải đối đầu. Trước tiên, nhà cửa cần được tái thiết. Mảnh đất cha ông bị lấn chiếm khi chủ nhà vắng mặt, cần phải được chiếm lại. Quan trọng hơn cả là việc tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem. Công việc này, ban đầu gặp phải những trắc trở. Đến năm 520 tcn (17 năm sau) công việc tái thiết mới được khởi sự. Và 5 năm sau đó (515 tcn), đến thờ mới được hoàn thành trên nền đất cũ. Từ đây, đền thờ trở thành trung tâm của đời sống dân Do Thái.
Năm 445 tcn, Nê-hê-mi-a đến Giê-ru-sa-lem. Ông là người có địa vị chính trị khá cao trong vương quốc Ba Tư. Ông xin phép vua Ba Tư cho xây lại tường thành Giê-ru-sa-lem. Chỉ trong hai tháng, công trình được hoàn thành, mặc dù trong lúc thi công, dân gặp phải sự chống đối từ phía người Sa-ma-ri và Am-mon.
Nhằm phục hưng Giu-đa về mặt thiêng liêng, tư tế kiêm ký lục Ét-ra công bố Sách Luật (Ngũ Kinh) cho dân. Ông cũng nhắc lại giao ước và lời hứa tín trung của dân với Gia-vê. Đáp lại, toàn dân thú nhận tội lỗi đã xúc phạm đến Gia-vê và đồng thanh tuyên hứa trung thành tuân giữ giao ước đã cam kết với Ngài.
Câu 49: Anh chị hãy cho biết bối cảnh tôn giáo và chính trị của người Do Thái sau lưu đày?
Vua được thay thế bằng vị Thượng tế. Chịu ảnh hưởng của Ba Tư, dân Do Thái vẫn có các quan chức người Ba Tư cai trị, nhưng người lãnh đạo thực sự là Thượng tế. Ông cũng được xức dầu như các vua ngày xưa. Bên cạnh Thượng tế, còn có 70 công nghị viên được tuyển chọn trong các kỳ lão.
Luật pháp được thay thế bằng luật Mô-sê. Sở dĩ luật Mô-sê được tôn trọng vì là luật Chúa truyền. Cùng với nội dung của Sách Luậ, những cắt nghĩa cũng được thêm vào cho phù hợp với những hoàn cảnh cụ thể trong đời sống.
Sách Thánh chiếm vai trò quan trọng. Khám Giao Ước không còn, thế nên Sách Thánh trở nên quan trọng và được xem như yếu tố quyết định cho việc phục hưng đạo đức. Đây là thời gian bộ Kinh Thánh Cứu Ước được thành hình.
Câu 50: Anh chị hãy cho biết bối cảnh xã hội và tôn giáo thời Đế quốc Hy Lạp của A-lê-xan đại đế?
Năm 336 tcn, A-lê-xan-đơ con vua Phi-líp lên kế vị vua cha lúc mới 20 tuổi. Là môn đệ của Aristotle, thấm nhuần tư tưởng của thầy: “Tất cả mọi người phải trở thành một dân tộc”. Ông tự nhận mình có trách nhiệm thực hiện thế giới đại đồng này, cho dẫu có phải dùng đến võ lực. Trong khoảng 13 năm (từ 336 – 324 tcn), ông gần như đạt được mục đích. Ông thiết lập một đế quốc rộng lớn chạy dài từ sa mạc Ai-cập đến sông Indus của Ấn Độ, trong đó có cả người Do Thái. Ông qua đời năm 324 tcn sau cơn đột quỵ khi mới 33 tuổi.
Câu 51: Anh chị hãy cho biết bối cảnh xã hội và tôn giáo của xứ Pa-lét-tin dưới thời các vua Ptô-lê-mê?
Sau khi A-lê-xan-đơ chết, đế quốc của ông bị các tướng lãnh phân chia. Sau một thời gian tranh giành, bắt đầu từ năm 301 tcn, xứ Do Thái thuộc quyền nhà Ptô-lê-mê mãi đến năm 198 tcn. Các vua nhà Ptô-lê-mê che chở cho Đạo và sống thân thiện hài hòa với người Do Thái.
Song song với những hoạt động kinh tế và kỹ nghệ, thành phố A-lê-xan-ri-a trở thành trung tâm thương mại quan trọng nhất của thế giới lúc bấy giờ. Bằng đường biển hoặc sa mạc, thành phố có thể liên lạc với những nơi quan trọng ở Á Châu, Phi Châu và Địa Trung Hải. Những người Do Thái sống trong thành phố này trở thành những nhà thương mại, buôn bán và giàu có. Vua Ptô-lê-mê rất quý trọng người Do Thái, ông để họ tự do sinh hoạt trong các hội đường của họ.
Chính tại thành phố này, vào năm 250 tcn, bản dịch LXX (70) từ tiếng Híp-ri sang tiếng Hy-lạp được bắt đầu. Công việc dịch thuật kéo dài tới 200 năm. Sau này, bản dịch LXX đã nhanh chóng trở thành Thánh Kinh của Giáo Hội Công Giáo trong những ngày đầu của Hội Thánh.
Câu 52: Anh chị hãy cho biết bối cảnh xã hội và tôn giáo của Xứ Pa-lét-tin dưới triều các vua Sê-lêu-cô?
Sê-lêu-cô chiếm giữ một lãnh thổ bao la, trải dài từ bờ Địa Trung Hải tới Ân Độ. Năm 198 tcn, An-ti-ô-khô III, thuộc dòng họ Sê-lêu-cô chiến thắng quân Ai Cập. Từ đó, Do Thái bị đặt dưới quyền của các vua Sê-lêu-cô. Từ đây, văn hóa Hy Lạp bắt đầu lên lỏi vào các ngõ ngách đời sống những người Do Thái, nhất là nơi giới lãnh đạo. Phía chính quyền để cho người Do Thái được tự do về tôn giáo và văn hóa.
Năm 175 tcn, An-ti-ô-khô IV lên nối ngôi cha. Ông nhận thấy những người ở Giu-đa tuy ít ỏi nhưng lại có tôn giáo và văn hóa riêng, chống lại văn hóa Hy Lạp. Điều này làm ông giận dữ và quyết tâm Hy Lạp hóa những người Do Thái, đồng thời tiêu diệt Do Thái giáo và luật Mô-sê. Chính vì thế, ông cho cấm tất cả các lễ tế của người Do Thái, bãi bỏ nghi thức cắt bì, cho cướp phá đền thờ và phá hủy tường thành Giê-ru-sa-lem, đồng thời bắt dân chúng phải ăn thịt heo.
Không những thế, ông còn cho đặt tượng thần Dớt (Zeus) của Hy Lạp lên bàn thờ hy lễ. Đền thờ Giê-ru-sa-lem trở thành nơi thờ phượng các thần Hy Lạp. Nhiều người Do Thái trong thời kỳ này bị giết hại. Có lẽ chưa bao giờ tôn giáo của Mô-sê bị tấn công kịch liệt đến thế. Đổi lại, những người Do Thái trung thành với lề luật cũng dốc tâm bảo vệ truyền thống, giữ gìn tôn giáo và văn hóa của cha ông, nhất quyết không để bị Hy Lạp hóa.
Câu 53: Anh chị hãy cho biết bối cảnh xã hội và tôn giáo của Xứ Pa-lét-tin dưới thời Hát-mô-nê?
Một năm sau khi đền thờ bị An-ti-ô-khô xúc phạm (166-165 tcn) Mát-ta-thi-át, tư tế thuộc hàng con cái Giô-đa-ríp đã lãnh đạo một số người Do Thái nổi dậy. Các con trai của ông trở thành tướng lãnh, nổi tiếng nhất là Giu-đa, người con trai thứ ba của ông. Cuộc nổi dậy của nhà Ma-ca-bê thành công nhanh chóng. Năm 165 tcn Giu-đa chiếm được đền thờ. Ông tổ chức lễ thanh tẩy và cung hiến lại đền thờ cách trọng thể.
Triều đại Hát-mô-nê phồn vinh trong một thời gian, nhưng sau đó, những người kế vị Giu-đa lại đi vào vết xe đổ, quá thế tục, chỉ biết đến chính trị mà quên Gia-vê Thiên Chúa. Những người Do Thái đạo đức đã chống lại sự bội phản của dòng họ Hát-mô-nê với lề luật và tinh thần Do Thái giáo. Họ rút lui vào sa mạc để sống cuộc sống thiêng liêng. Họ phủ nhận quyền lãnh đạo tôn giáo và chính trị của triều đại Ma-ca-bê. Một số trong nhóm đã xây dựng nên cộng đoàn Cum-ran nổi tiếng ở phía Tây Bắc Biển Chết. Họ sống đời khổ hạnh giống các tu sĩ.
Năm 67 tcn, khi hai anh em nhà Hát-mon tranh quyền kế vị, người Rô-ma được mời đến để giảng hòa. Chụp lấy thời cơ, tướng Pom-pê tiến quân vào Giê-ru-sa-lem. Đầu mùa Thu năm 63 tcn, quân Rô-ma chiếm đền thờ. Năm 48 tcn, tước Xê-da thắng tướng Pom-pê, đặt An-ti-pa-tê làm tổng trấn xứ Do Thái thuộc quyền Rô-ma. Sau khi ông chết, con ông là Hê-rô-đê được đặt làm vua xứ này từ năm 37 tcn đến năm 4 tcn.
Vài năm trước khi Hê-rô-đê băng hà, Chúa Giê-su ra đời. Sự xuất hiện của Ngài khép lại giai đoạn chuẩn bị ơn cứu độ mà khai mở giai đoạn thực hiện.
BÀI 8
CHÚA GIÊ-SU HOÀN TẤT ƠN CỨU ĐỘ
Câu 54: Chúa Giê-su được sinh ra năm nào?
Chúa Giê-su ra đời dưới thời vua Hê-rô-đê Cả. Theo sử liệu, Hê-rô-đê Cả băng hà năm thứ 4 tcn. Chính ông đã ra lệnh tàn sát các hài nhi từ 2 tuổi trở xuống trong thành Bê-lem và các miền phụ cận. Từ đó, chúng ta có thể suy đoán, có lẽ Chúa Giê-su sinh vào khoảng năm thứ 7 hoặc 6 tcn.
Câu 55: Chúa Giê-su hoạt động trong những năm nào?
Người ta cho rằng Chúa Giê-su hoạt động khoảng năm 28 sau CN. Tin Mừng Lu-ca kể rằng, Chúa Giê-su hoạt động vào “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô” (Lc 3,1). Hoàng đế này lên ngôi ngày 19/8/14. Năm thứ 15 của triều đại Ti-bê-ri-ô vào khoảng năm 28-29. Lu-ca viết, Chúa Giê-su hoạt động lúc 30 tuổi (Lc 3,23), có lẽ ngài muốn ám chỉ vua Đa-vít lên ngôi cai trị năm 30 tuổi.
Về số năm hoạt động của Chúa Giê-su, các Tin Mừng không cho những chi tiết đồng nhất. Theo thánh Gio-an, Đức Giê-su hoạt động qua 3 lễ Vượt Qua (Ga 2,13; 6,4; 11,5) hoặc 4, nếu ngày lễ Gio-an nói ở Ga 5,1 cũng là lễ Vượt Qua.
Tin Mừng Nhất Lãm (Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca) chỉ nói đến một lần lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, đa phần các nhà chú giải cho rằng, thánh Gio-an nói chính xác hơn. Vì Chúa Giê-su không thể làm tất cả những việc mà Tin Mừng Nhất Lãm đã ghi lại trong vòng một năm. Để giải thích về sự khác biệt này, các nhà chú giải cho rằng: Có lẽ, vì muốn đơn giản hóa đời sống của Chúa Giê-su, để chỉ nhấn mạnh đến những điểm quan trọng, giúp người rao giảng Tin Mừng có thể trình bày giống nhau và dễ nhớ.
Câu 56: Anh chị hãy cho biết đâu là ý nghĩa của mầu nhiệm Giáng Sinh?
Lịch sử nhân loại cho thấy, Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, dựng nên trời đất muôn vật. Ngài thường xuyên can thiệp vào lịch sử nhân loại qua các biến cố trong cuộc đời các Tổ phụ. Chọn Áp-ra-ham để thiết lập một dân riêng. Dùng Mô-sê để đưa dân riêng ra khỏi Ai-cập về miền đất hứa. Qua các tiên tri, Thiên Chúa cảnh cáo, khuyến khích và dạy dỗ dân Ngài. Cuối cùng, Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài đến sống giữa con người, chia sẻ cuộc sống đau thương và thân phận con người khổ lụy với nhân loại.
Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, nhưng lại rất gần gũi với con người. Ngài hiện diện trong công trình sáng tạo. Ngài hiện diện qua sự can thiệp vào lịch sử nhân loại. Nhất là Ngài hiện diện qua Người Con duy nhất của Ngài là Chúa Giê-su, Ngôi Lời nhập thể. Mầu nhiệm nhập thể đã xóa đi khoảng cách vô biên giữa đất và trời. Thiên Chúa ở cùng nhân loại không phải để lên án, những để: đem Tin Mừng cho người nghèo khó, giải thoát cho kẻ bị giam cầm. Ngài là nơi nương náu cho những người bị bỏ rơi, là ân sủng và sự tha thứ cho tội nhân.
Câu 57: Đâu là ý nghĩa của việc Đức Giê-su rao giảng Nước Trời?
Sau thời gian ẩn dật 30 năm, Đức Giê-su đến sống Gio-đan chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy Giả, sau đó Người vào hoang địa ăn chay cầu nguyện. Đức Giê-su khởi đầu sứ mạng bằng lời kêu gọi: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17).
Nước Trời giữ một vị thế quan trọng trong lời rao giảng của Chúa Giê-su.
Nước Trời bắt đầu hiện diện cùng với sự xuất hiện của Chúa Giê-su trên trần gian.
Nước Trời là một thực tại huyền nhiệm, con người không thể thấu đạt. Nó chỉ có thể hiểu được khi được Đức Giê-su mạc khải cho, nhất là cho những kẻ bé mọn.
Nước Trời đã đến cùng với sự nhập thể của Đức Giê-su. Tuy nhiên, cũng như hạt cải mọc lên hay như chút men trong bột, Nước Trời sẽ dần lớn lên và đạt tới sự viên mãn.
Nhưng để được vào Nước Trời, còn người cũng phải nỗ lực tìm kiếm, nếu không sẽ bị loại ra như cỏ lùng trong ruộng lúa.
Nước Trời là vương quốc của lòng từ bị và tình yêu, trong đó, mọi người được mời gọi sống yêu thương như chính tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Câu 58: Đâu là ý nghĩa của việc Đức Giê-su củng cố lời giảng bằng cách phép lạ?
Câu 59: Chúa Ki-tô thiết lập Hội Thánh như thế nào?
Trong những năm rao giảng công khai Chúa Giê-su đã đặt nền móng cho Giáo Hội bằng việc chọn 12 Tông Đồ như là Ít-ra-en mới và đặt Phê-rô làm người đứng đầu. Sau đó, Người còn chọn 72 môn đệ và sai họ đi Loan báo Tin Mừng cho muôn dân tộc. Để củng cố lời rao giảng của các ông, Ngài ban cho các ông quyền trừ quỷ, chữa các bệnh tật, nhất là quyền tha tội để xua đuổi quyền lực của Sa-tan và sự dữ. Người còn sai Thánh Thần đến để nâng đỡ, hướng dẫn và canh tân Hội Thánh hầu giúp Hội Thánh có thể mang ơn cứu độ cho mọi người ở mọi nơi cho đến khi Người trở lại trong vinh quang.
BÀI 9
THÔNG PHẦN ƠN CỨU ĐỘ
Câu 60: Tại sao nói: Chúa Ki-tô là Đấng Cứu Độ duy nhất?
Chỉ trong Chúa Ki-tô và qua sự hiệp nhất với Người, nhân loại mới được hưởng ơn cứu độ. Vì chỉ mình Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Chính vì Người là Con Thiên Chúa, nên chỉ mình Người mới chiến thắng được tội lỗi và sự chết, chỉ mình Người mới phục sinh, như lời Người nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Câu 61: Đâu là những đặc điểm của Giáo Hội?
Giáo Hội là một đoàn thể quy tụ chung quanh Đức Ki-tô. Vì vậy, tâm điểm của Giáo Hội không phải là một lý thuyết hay một bí tích nào, nhưng là con người của Đức Ki-tô – Đấng đã chết, đã sống lại và ban Thánh Thần. Giáo Hội có những đặc điểm sau:
BÀI 10
ƠN CỨU ĐỘ ĐẾN VỚI MUÔN DÂN
Câu 62: Đâu là những hoạt động của Giáo Hội sơ khai tại Giê-ru-sa-lem?
Để tiếp nối công trình cứu độ của Đức Giê-su, những người tin theo Chúa Ki-tô lập thành một cộng đoàn liên kết, hiệp thông với nhau dưới sự lãnh đạo của các Tông Đồ. Họ nghe các Tông Đồ rao giảng, chung tâm tình cầu nguyện, sống chan hòa yêu thương và cùng nhau cử hành lễ Bẻ Bánh. Họ đề cao vai trò lãnh đạo của các Tông Đồ, nhất là quyền tối thượng của Phê-rô. Tuy họ có những sinh hoạt riêng biệt, nhưng các thành viên vẫn tham gia vào các nghi thức phụng tự của Do Thái giáo. Ngày ngày, họ lên đền thờ cầu nguyện và nghe giảng dạy.
Câu 63: Tại sao nói: Công đồng Giê-ru-sa-lem là “Cánh cửa Giáo Hội rộng mở”?
Một số tín hữu Do Thái trở lại tin theo Đức Ki-tô còn nặng tình quyến luyến với Do Thái giáo. Vì thế, họ muốn những người ngoại mới trở lại Ki-tô giáo phải chịu phép cắt bì và tuân giữ lệ luật Mô-sê (x. Cv 15,5). Trước đòi hỏi này, những người ở An-ti-ô-ki-a cảm thấy bức xúc. Họ cử một phái đoàn do Phao-lô và Ba-na-ba đứng đầu lên Giê-ru-sa-lem thỉnh ý các Tông Đồ. Thế là một công đồng được triệu tập – công đồng Giê-ru-sa-lem – cũng là công đồng đầu tiên của Giáo Hội. Công đồng đi đến kết luận: Những người ngoại trở lại Ki-tô giáo không bị bó buộc giữ luật Mô-sê, tuy nhiên, họ cần phải kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. (x. Cv 15,29).
Với quyết định này, từ nay, cánh cửa của Giáo Hội rộng mở, Phao-lô và các nhà truyền giáo có thể đi khắp nơi truyền rao Tin Mừng. Vì ơn cứu độ được thực hiện qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Ki-tô; con người có thể thông phần nhờ sự hợp nhất với Người để trở nên con Thiên Chúa và nhờ đó được hưởng ơn cứu độ.
PHẦN II
MÔN HỌC
LỊCH SỬ GIÁO HỘI
BÀI 1
CHÚA GIÊ-SU LÊN TRỜI – BIẾN CỐ NGŨ TUẦN
HỘI THÁNH SƠ KHAI
Câu 1: Anh chị hãy nêu những nét chính của Giáo đoàn tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem?
Cộng đoàn tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem có một tổ chức vừa theo khuôn khổ của Do Thái vừa có đặc tính mới mẻ và riêng biệt của Ki-tô giáo. Cộng đồng mới này chưa tách biệt khỏi cộng đồng Do Thái.
Họ vẫn nhiệt thành tham dự các lễ bái ở đền thờ và các buổi họp ở hội đường. Ngoài ra, họ còn có những buổi họp riêng để “bẻ bánh” và cầu nguyện, nghĩa là cử hành Tiệc Thánh.
Tình yêu liên kết họ thành một trái tim, một tâm hồn: “Điều làm cho mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau”. Chúa củng cố lời giảng của các Tông Đồ bằng những phép lạ kèm theo.
Câu 2: Anh chị hãy cho biết, đâu là những khó khăn mà Hội Thánh sơ khai gặp phải?
Những khó khăn từ bên trong: Hội Thánh phải đứng trước tình huống phải chọn lựa một thái độ giữa mạc khải mới nhận được và nghi lễ cũ của Do Thái giáo; Việc dân Chúa thì phủ nhận sứ điệp, còn dân ngoại lại tuôn đổ về gia nhập Hội Thánh. Việc hủy bỏ phép cắt bì và những kiêng kỵ khác của Do Thái giáo. Hội Thánh vẫn kiên quyết giữ đức tin nguyên vẹn cùng với một tinh thần cởi mở để có thể thích ứng với hoàn cảnh mới.
Những khó khăn từ bên ngoài: Cái chết của Ste-pha-nô năm 34 scn mở đầu cho cuộc bách hại Hội Thánh ở Pa-lét-ti-na. Các tín hữu phải phân tán đi khắp nơi. Họ đi tới đâu, truyền bá Tin Mừng tới đó. Các cuộc bách hại là lý do để giúp mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Ki-tô giáo xuống tận Ai-cập.
Câu 3: Sự xuất hiện của Phao-lô đã mang lại những lợi ích gì cho Giáo Hội?
Ông là một người Do Thái nhiệt thành. Với ước mong giữ tinh tuyền niềm tin của cha ông, ông đã xin chứng thư để lên đường đi bắt tất cả những Ki-tô hữu đem về Giê-ru-sa-lem xử tội. Tuy nhiên, Đức Ki-tô phục sinh đã chinh phục ông và biến ông trở thành vị “Tông Đồ dân ngoại”. Chính với Phao-lô mà Hội Thánh đã bước vào một trang sử mới, vươn tới tận châu Âu. Phao-lô cũng là người đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì Hội Thánh độc lập khỏi phong tục Do Thái. Thời đại các Tông Đồ là thời đại khởi đầu và là thời kỳ thiết lập nền tảng cho Hội Thánh.
BÀI 2
PHAO-LÔ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI THÁNH
CÁC CUỘC BÁCH HẠI
Câu 4: Anh chị hãy cho biết đôi nét về Hành trình truyền giáo lần thứ I của Thánh Phao-lô (45-49)
Mùa Xuân năm 45, sau khi lãnh nhận sứ mạng cùng với Ba-na-ba và Gio-an Mác-cô, Sao-lô xuống tàu tại Xê-lêu-xi-a. Các ngài đã dừng chân ở đảo Xíp, Pam-pi-li-a, Pi-xi-đi-a và Ni-cao-ni-a. Tại đây, Sao-lô được đổi tên thành Phao-lô. Ông về dự công đồng Giê-ru-sa-lem năm 49. Nhờ hoạt động và công trình của Phao-lô, các Tông Đồ đã quyết định trong công đồng này là: Các Ki-tô hữu gốc dân ngoại không buộc phải theo luật Do Thái, đồng thời, công nhận Phao-lô là Tông Đồ dân ngoại.
Câu 5: Anh chị hãy cho biết đôi nét về Hành trình truyền giáo lần thứ II (50-52)
Qua vùng Tiểu Á, Phao-lô có một thị kiến ở Tơ-roa: Một người xứ Ma-kê-đô-ni-a xin ngài qua đó để cứu giúp họ. Đây là giai đoạn thiết yếu. Tin Mừng được loan báo tới Châu Âu vào năm 50. Từ đây, khai sinh các công đoàn Pho-líp-phê, Thê-xa-lô-ni-ca, Cô-rin-tô… Phao-lô cũng đến kinh đô văn hóa A-then của Hy Lạp. Tại đây, ngài cố gắng cho thấy có một sự hội nhập giữa triết lý Hy Lạp và Tin Mừng. Khi rao giảng, ngài chỉ cố gắng loan báo về Chúa Giê-su Ki-tô mà là Đấng bị đóng đinh vào thập giá.
Câu 6: Anh chị hãy cho biết đôi nét về Hành trình truyền giáo lần thứ III (53-58)
Thánh Phao-lô lại thăm viếng các cộng đoàn ở Á Châu. Tại đây, ngài gặp rất nhiều khó khăn: Người Do Thái chống đối, bách hại, vì họ không chấp nhận sứ điệp về Chúa Giê-su. Lương dân thì ác cảm vì nguồn lợi đến từ thương mại gắn liền với đền thờ và các cuộc hành hương bj sa sút. Tuy nhiên, các cộng đoàn tín hữu thì phấn khởi, đặc biệt là cộng đoàn ở Cô-rin-tô. Vì tại đây, có đủ loại đặc sủng xuất hiện, nhất là ơn nói tiếng lạ. Khó khăn mà thánh nhân gặp phải là Hội Thánh tại đây có những tranh chấp, phe phái, chia rẽ, thiếu sự cảm thông giữa người giàu và kẻ nghèo. Đôi khi cũng có những lạm dụng.
Cơ cấu tổ chức của đế quốc Rô-ma đã tạo nên nhiều thuận lợi cho việc rao giảng Tin Mừng. Hơn nữa, Tin Mừng đáp ứng được khát vọng sâu xa ủa con người. Trong một thế giới vốn coi thường mạng sống (đấu trường, võ sĩ giác đấu…) sống buông thả, ăn chơi vô độ… thì sự hiện diện của các Ki-tô hữu như một làn gió mới. Cộng đoàn Ki-tô hữu rộng tay đón tiếp tất cả mọi người. Mọi người đều được coi trọng và bình đẳng với nhau. Những người nghèo, nô lệ, phụ nữ, trẻ em, đều được coi trọng. Tuy nhiên, để có được những kết quả tích cực, các Ki-tô hữu đã phải đánh đổi bằng những bách hại, chống đối và bằng cả mạng sống của mình.
Câu 7: Anh chị hãy cho biết đâu là nguyên nhân của cuộc bách hại trong Giáo Hội sơ khai?
Ki-tô giáo được kể là một tôn giáo được coi là lạ lẫm với nhiều người lúc bấy giờ. Những đòi hỏi luân lý của Tin Mừng gây sốc đối với họ. Những cử hành phụng tự cách kín đáo của các Ki-tô hữu sơ khai bị người ta thêu dệt thành những điều xấu xa.
Người ta cho rằng: Ki-tô hữu là người vô thần, vì không theo các tôn giáo khác. Họ còn bị coi là những công dân xấu vì không thờ hoàng đế, cũng không chấp nhận tập tục của tiền nhân, trong khi lại đi thờ “một tên trộm bị đóng đinh”. Các Ki-tô hữu loạn luân, tụ họp nhau ăn bữa tối để truy hoan và làm những trò xấu xa. Các Ki-tô hữu ăn thịt người: “Thịt máu họ ăn chính là thịt của người bị giết chết để tế lễ”
Các hiền triết và các chính trị gia thì cho rằng: Ki-tô hữu là những kẻ đáng thương, dốt nát và kiêu kỳ vì được thu nạp từ những giai cấp trong xã hội. Giáo thuyết của Ki-tô giáo đối nghịch với lý trí. Thiên Chúa nhập thể là điều phi lý, vì Thiên Chúa – Đấng trọn hảo, bất biến, Ngài không thể nào trở thành một người phàm, lại không thể nào trở thành một trẻ thơ được. Sự phục sinh thân xác là một sự lừa lọc khủng khiếp. Thiên Chúa hòa bình của Tân Ước khác hẳn với Thiên Chía chiến tranh của Cứu Ước. Bí tích Thánh Thể là nghi lễ ăn thịt người…
Các lời vu khống này được loan truyền rộng rãi nhưng không phải ai cũng chấp nhận. Tuy nhiên, họ cũng bị chống đối bằng những cuộc tàn sát đẫm máu, man rợ.
Người ra đổ lỗi cho các Ki-tô hữu khi có những thiên thai, địch bệnh, vì cho rằng, vì các Ki-tô hữu mà thần linh nổi giận. Các hoàng đến thay nhau bách hại Hội Thánh. Cuộc bách hại này kéo dài tới hơn 300 năm. Họ bắt các Ki-tô hữu phải bỏ đạo, phải thờ các thần ngoại, thậm chí phải thờ các hoàng đế. Cuộc bách hại đã khiến các Ki-tô hữu phải sống chui lủi trong cảnh lầm than, khốn khổ. Nhiều Ki-tô hữu đã vì quá sợ hãi mà bỏ Đạo. Tuy nhiên, trong thời kỳ này cũng xuất hiện các vị tử đạo lừng danh. Tin Mừng vẫn tiếp tục được lan rộng. Bên cạnh đó, thời kỳ này còn xuất hiện các Giáo phụ, là những người trí thức Ki-tô giáo. Các ngài đã viết các tác phẩm để bênh vực niềm tin Ki-tô giáo, đồng thời chống lại các lạc thuyết. Đến đầu thế kỷ thứ IV cuộc bách hại mới thực sự chấm dứt khi hoàng đế Con-tan-ti-nốp ban chiếu chỉ tha Đạo năm 313.
BÀI 3
CÁC LẠC THUYẾT – CÁC GIÁO PHỤ
Câu 8: Anh chị hãy nêu những giáo thuyết sai lạc giai đoạn thế kỷ thứ IV và V?
Lạc thuyết thứ 1: Chối bỏ thần tính của Đức Giê-su. Được khởi xướng bởi linh mục A-ri-ô thuộc trường phái A-lê-xan-ri-a. Ông cho rằng: Đức Giê-su không phải là Chúa ngang hàng với Chúa Cha, mà chỉ là tạo vật ưu tú của Ngài. Thuyết này có ảnh hưởng lớn và kéo dài khá lâu vì được các hoàng đế ủng hộ.
Lạc thuyết thứ 2: Thiên tính và thần tính của Đức Giê-su hoàn toàn tách biệt nhau. Từ lạc thuyết này, dẫn đến việc cho rằng, Đức Maria chỉ là mẹ con người của Đức Giê-su chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
Lạc thuyết thứ 3: Chủ trương rằng, hai bản tính nơi Đức Giê-su không tách biệt mà chỉ là một.
Những sai lạc ấy đã gây ra nhiều rối ren trong Hội Thánh, chia rẽ, bất hòa, ly khai và nhiều hoang mang trong dân Chúa, đến nỗi các hoàng đế phải triệu tập công đồng để Hội Thánh giải quyết. Công đồng Ni-cê-a (325) giải quyết vấn đề của A-ri-ô và tuyên bố: Đức Giê-su ngang hàng với Chúa Cha. Công đồng Ê-phê-xô (431) xác định: Đức Giê-su có hai bản tính nhưng không tách rời nhau và do đó công bố Đức Maria là Mẹ con người Đức Giê-su, đồng thời cũng là Mẹ Thiên Chúa.
Câu 9: Anh chị hãy nêu kiểu quan hệ mới của Hội Thánh với xã hội trong thế kỷ thứ IV và V?
Giáo Hội được tháp nhập vào một nhà nước tự coi là có Đạo, dẫn đến việc thần quyền (Giáo Hội) và thế quyền (Nhà nước) dẫm chân lên nhau.
Hoàng đế can thiệp vào đời sống Giáo Hội và muốn Giáo Hội là chỗ dựa tinh thần. Ông đứng ra giải quyết các tranh chấp trong Giáo Hội và có quyền triệu tập Công Đồng.
Giáo Hội dựa vào hoàng đế để chống lại bè rối và tái lập trật tự chung. Như vậy, vô hình chung, Giáo Hội bị cầm tù trong một thể chế chính trị-văn hóa, và như thế, phần nào làm phai nhạt men Phúc Âm.
Câu 10: Theo anh chị, các Giáo Phụ có ảnh hưởng thế nào tới đời sống của Giáo Hội?
Các Giáo Phụ là những giáo sĩ hay giáo dân sống vào những thế kỷ đầu, gần gũi với các Tông Đồ. Các ngài có đời sống mẫu mực và trổi vượt về Giáo lý. Chính các ngài đề ra cách đọc Kinh Thánh dưới ánh sáng Đức Ki-tô và sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Thời kỳ các Giáo Phụ bắt đầu với những bản văn tiếp theo sau Tân Ước.
Ngoài việc hướng dẫn suy niệm Thánh Kinh hoặc đưa ra những giáo huấn về luân lý, hoàn cảnh bắt đạo buộc các ngài phải đưa ra những lập luận để bảo vệ đức tin Ki-tô giáo đang bị công kích. Những bản văn đó được gọi là “Hộ giáo”.
Một số Giáo Phụ có những tác phẩm trổi vượt nhất của thời ấy là: thánh A-tha-na-xi-ô, Ba-xi-li-ô, Grê-gô-ri-ô thành Na-di-en, Grê-gô-ri-ô thành Ni-xê… Tại Tây Phương có thánh Am-brô-xi-ô, Au-gút-ti-nô, Đức Lê-ô Cả… Các ngài vừa là những nhà đại tri thức vừa là những nhà lãnh đạo các cộng đoàn lớn. Các Giáo Phụ cũng đặt ra cơ cấu nền tảng cho Phụng vụ mà ngày nay Giáo Hội vẫn còn tham chiếu.
Câu 11: Anh chị hãy cho biết tổ chức của Giáo Hội ở thế kỷ thứ V?
Các Ki-tô hữu đầu tiên tụ tập hàng tuần tại các tư gia để nghe giảng dạy, cầu nguyện và thi hành việc phụng tự. Các đền thờ thực sự chỉ được xây dựng dưới thời hoàng đế Con-stan-ti-nô.
Ai muốn trở thành Ki-tô hữu phải từ bỏ tội lỗi, thực hành các giới răn, đón nhận Tin Mừng và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su. Sau khi chịu Phép Rửa, họ không được phép phạm tội trọng nữa.
Họ kết hôn giống mọi người, nhưng đem lại cho hôn nhân một ý nghĩa mới: Tính bất khả phân ly và vợ chồng cùng chia sẻ một niềm tin.
Người đứng đầu các cộng đoàn là Giám mục, linh mục và các Phó tế. Những vị này được hàng giáo sĩ và dân chúng cùng tuyển chọn, sau đó được đặt tay truyền chức bởi các Giám mục.
Kinh Tin Kính được hình thành dần dần trong giai đoạn này, dựa trên lời tuyên xưng đức tin vào những điểm Giáo lý mà các Tông Đồ để lại và được các Giáo Phụ giải thích. Sau cùng, Kinh Tin Kính đã được công bố chính thức trong Công đồng Ni-cê-a năm 325.
BÀI 4
CẢI HÓA NGƯỜI MAN-DI
GIÁO HỘI ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TÂY PHƯƠNG
Câu 12: Anh chị hãy cho biết quá trình cải hóa người Man-di (thế kỷ VI – X) diễn ra như thế nào?
Trải qua 3 thế kỷ, Hội Thánh mới được nhìn nhận trong đế quốc Rô-ma khiến đạo giáo đứng vào một vị trí mới gần như quốc giáo. Các tổ chức và cơ cấu dần được kiện toàn nhờ cách tổ chức của đế quốc Rô-ma. Ranh giới hành chính của đế quốc và Giáo Hội trùng nhau. Các Giám mục được đồng hóa với các viên chức cao cấp trong xã hội. Nhưng rồi đế quốc La Mã cũng suy yếu dần do cuộc xâm lăng của dân Man-di đến từ Bắc Âu. Khối Man-di không phải là một dân tộc thuần nhất nhưng là nhiều nhóm bộ lạc khác nhau về tính tình, tín ngưỡng và phong tục… có khi liên minh với nhau, có khi lại chống đối nhau. Họ gồm 3 nhóm chính là: Nhóm German, Nhóm Slavo và Nhóm Mongoli da vàng.
Chính nhờ các Đức Giáo Hoàng đứng ra thương thuyết mà người Ma di được thu phục và trở lại Đạo, bắt đầu là những người Franks thuộc Nhóm German vào cuối thế kỷ thứ V. Không đầy 3 thế kỷ sau, tất cả các Nhóm Man-di đều đồng loạt trở lại Đạo Công Giáo. Tin Mừng tình thương cũng đã dần thấm nhập và cảm hóa những sắc dân này. Do đó, có thể nói được là Hội Thánh đã đặt nền tảng cho văn hóa Châu Âu.
Câu 13: Anh chị hãy nói đôi nét về nguyên nhân dẫn đến Giáo Hội Đông – Tây chia rẽ?
Giáo Hội Đông cũng như Tây Phương đều có chung một đức tin. Nhưng “não trạng” tôn giáo thì có phần khác do ảnh hưởng của những dị biệt về chính trị, kinh tế và văn hóa. Tuy Đức Giáo Hoàng ở Rô-ma vẫn được Giáo Hội Đông Phương nhìn nhận là vị đứng đầu toàn Giáo Hội, nhưng trong sự gượng ép. Các dân tộc do Giáo Hội Đông Phương truyền giáo như Bun-ga-ri, Slô-va-ni-a, Ban-căng và Nga lại chỉ công nhận Đức Thượng Phụ Giáo chủ Con-tan-ti-nốp.
Nguyên nhân của cuộc phân ly:
Do bận đối đầu với người Man-di rồi sau đó được phát triển mạnh ở Châu Âu (tk V-VIII), Giáo Hội Tây Phương đóng đô lâu ở vùng Cận Đông, không mấy quan tâm đến Giáo Hội Đông Phương.
Hoàng đế Con-tan-ti-nô chuyển thủ đô sang Con-tan-ti-ô-pô-li, để Rô-ma lại cho Đức Giáo Hoàng coi sóc. Từ đó, tín hữu Đông và Tây bắt đầu cách xa nhau.
Do không nói cùng ngôn ngữ: Đông Phương dùng tiếng Hy Lạp, trong khi Tây Phương dùng tiếng La-tinh,
Họ cũng khác tâm tính nhau: Đông Phương thiên về cảm tính, Tây Phương thiên về lý luận.
Vì lý do chính trị, hai bên lại bị lệ thuộc vào những đế quốc khác nhau, đôi khi đối nghịch nhau.
Cuối cùng là sự xuất hiện của Hồi Giáo tại những xứ được coi là chiếc nôi của nền văn minh Ki-tô giáo như Xi-ry, Pa-lét-tin và Ai-cập. Điều này góp phần làm cho sức mạnh của Đông Phương bị chao đảo và bị đẩy xa khỏi Giáo Hội Tây Phương.
Đỉnh cao của cuộc phân ly hoàn toàn là việc: Ngày 16/6/1054 đại diện của Đức Giáo Hoàng Lê-ô IX và Thượng Phụ Giáo chủ Con-tan-ti-nô-pô-li ra vạn tuyệt thông lẫn nhau. Mãi tới ngày 07/12/1965, hai vị mục tử tối cao của Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống là Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI và Đức Thượng Phụ Giáo chủ Con-tan-ti-nô-pô-li mới giải vạ cho nhau.
Trong thực tế, hiện nay, vẫn còn là hai Giáo Hội: Giáo Hội Công Giáo Rô-ma và Giáo Hội Chính Thống. Từ 50 năm trở lại đây, phong trào đại kết các Giáo Hội Ki-tô ra đời, nhằm thực hiện lời “di chúc” của Chúa Giê-su “Xin cho họ nên một như chúng ta là một”.
BÀI 5
THẬP TỰ CHINH - THỜI TRUNG CỔ LỤI TÀN
(Thế kỷ XI đến XV)
Câu 14: Anh chị cho biết nguyên nhân hình thành Thập Tự chinh là gì?
Từ thế kỷ thứ VII, Hồi Giáo đã xuất hiện tại Trung Đông. Thế lực ấy phát triển ngày càng nhanh, thống lĩnh Đông Phương rồi tiến dần sang Tây Phương theo đường Bắc Phi và Tây Ban Nha.
Vào thế kỷ XI, tuy đã ly khai, nhưng các tín hữu Tây Phương vẫn còn về thánh địa Giê-ru-sa-lem hành hương vào các dịp lễ. Tại đây, họ thường bị nhóm người Hồi Giáo quá khích Thổ Nhĩ Kỳ tấn công, cản trở và gây khó khăn. Sau đó, những người này còn chiếm Giê-ru-sa-lem và nơi phượng tự.
Để giải cứu Giê-ru-sa-lem và các tín hữu Đông Phương, Giáo Hội Tây Phương kêu gọi các vua Công Giáo (Pháp, Đức, Ý…) hợp lực lên đường cùng với những đạo quân hùng mạnh của họ kéo sang Trung Đông. Trên các lá cờ của quân lính có vẽ hình Thập Giá, nên người ta gọi là Thập Tự Chinh.
Câu 15: Anh chị cho biết đâu là lý do dẫn tới việc Thời Trung cổ lụi tàn?
Thời vàng son của Hội Thánh tại Châu Âu vào thế kỷ XIII bắt đầu biến mất. Sau sự thất bị của các cuộc Thập Tự Chinh, trung tâm của nền văn minh bắt đầu chuyển dời sang Bắc Âu. Nước Pháp trở thành một thế lực cường quốc mới, cùng với đó, thủ đô Pa-ri trở thành trung tâm trí thức. Giai đoạn cuối thời Trung Cổ là giai đoạn đầy biến động vì những lý do sau:
BÀI 6
THẦN QUYỀN VÀ THẾ QUYỀN
CÁC CUỘC LY KHAI – HỘI THÁNH CANH TÂN
Câu 16: Anh chị hãy nêu những ảnh hưởng của Thần quyền và Thế quyền?
Vào thời Trung Cổ, Đức Giáo Hoàng có ảnh hưởng trên toàn Châu Âu. Biết rõ điều ấy, các gia đình quyền quý tìm cách đưa người của mình vào chiếc ngai Giáo Hoàng. Các vua cũng muốn giáo chủ của nước mình ở vào ngôi vị ấy. Bởi như thế, họ sẽ điều khiển được Giáo Hoàng. Thời Trung Cổ vẫn chứng kiến sự tranh chấp của hai quyền lực này để tìm ra vị trí và chỗ đứng của mỗi bên. Điều đáng tiếc là những quyền bính ấy đã không thể hiện bằng tình thương mà bằng bạo lực.
Giáo Hội đã sử dụng những biện pháp cứng rắn để ép buộc sự vâng phục cách thụ động, như trường hợp của Ga-li-lê (vì cho rằng khám phá mới của ông là lạc thuyết). Ngoài ra, Giáo Hội còn sử dụng cả hình phạt “Dứt phép thông công” hoặc nghiêm trọng hơn là Tòa Án để chống lại những dị giáo. Hậu quả của những biện pháp cứng rắn này, dẫn đến việc trong giai đoạn 1420-1498, đã có hàng ngàn người bị tử hình ở Tây Ban Nha.
Trở về với Thánh Kinh và các Giáo Phụ, nhiều người muốn thanh tẩy Giáo Hội khỏi các ung nhọt. Thêm vào đó, do ảnh hưởng bởi những tư tưởng mới của xã hội, trong Giáo Hội nảy sinh óc phê phán, nhằm tấn công trực tiếp vào những điểm chính yếu như: Hàng giáo phẩm, người lãnh đạo Giáo Hội và các Bí Tích; Lời Chúa…
Câu 17: Tóm tắt cuộc ly khai của Luther?
Luther là một linh mục Dòng và một giáo sư thần học người Đức. Vì không đồng tình với những sai lầm của Hội Thánh Rô-ma, ông đã khởi xướng một phong trào cải tổ ngay tại Đức nhằm thoát ly khỏi Giáo Hội. Ngày 20/10/1517, ông cho dán 95 luận đề trên cửa nhà thờ của lâu đài Wittenberg phản kháng các nhà lãnh đạo Hội Thánh về vấn đề ban ân xá mà ông cho là giả tạo. Ông chủ trương rằng:
Từ chối rút lại những luận đề trên, ông bị rút phép thông công năm 1521 và sau đó ly khai với Hội Thánh Rô-ma, lập nên Tin Lành giáo.
Câu 18: Tóm tắt cuộc ly khai của vua nước Anh là Hen-ri VIII?
Chỉ hơn 10 năm sau, sau cuộc ly khai của Luther, Giáo Hội chưa kịp thực hiện cuộc canh tân, thì lại gặp rắc rối với vua Hen-ri VIII của nước Anh. Do không được Giáo Hội cho phép ly dị để lấy vợ khác, bản thân ông cũng không muốn bị phụ thuộc vào Giáo Hoàng, ông đã tự tách khỏi Giáo Hội Công Giáo Rô-ma để lập ra Anh Giáo do chính ông làm giáo chủ. Với quyết định này, ông bị rút phép thông công năm 1533. Anh Giáo vẫn còn ly khai cho đến nay.
Câu 19: Thời kỳ Phục Hưng, Hội Thánh đã canh tân như thế nào?
Để lập lại trật tự, đồng thời cũng để sửa chữa những sai lầm, Công Đồng Tren-tô được triệu tập kéo dài từ 1545-1563. Qua Công Đồng này, Giáo hội đã xác định cách nghiêm chỉnh các vấn đề mà cải các Tin Lành đã nêu lên. Tránh tất cả mọi hình thức cuồng nhiệt đến từ thái độ tranh luận gắt gao, đồng thời diệt trừ mọi lạm dụng trong Giáo Hội. Công Đồng xác định nhiều điểm Giáo lý chưa bao giờ được khẳng định cách minh nhiên trong quá khứ và cũng đòi hỏi canh tân trong mọi lĩnh vực mục vụ. Nhiều văn kiện của Công Đồng là kết quả của những suy tư lâu dài. Trong số các quyết sách mục vụ, việc lập các chủng viện đã đem lại những kết quả lớn lao cho tương lai của Giáo Hội.
Câu 20: Anh chị hãy cho biết vai trò của các Dòng Tu với sự phát triển của Giáo Hội thời kỳ Phục Hưng?
Từ 1209-1215 những nhà giảng thuyết lưu động như thánh Phan-xi-cô và thánh Đa Minh đã lập Dòng Phan-xi-cô và Dòng Đa Minh, để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống thiêng liêng và trí thức của Giáo Hội, góp phần củng cố đức tin của người Ki-tô hữu.
Đến thời Phục Hưng, cũng có các Dòng tu mới xuất hiện, góp phần vào việc cải cách Giáo Hội. Trong đó phải kể đến thánh In-nha-xi-ô – đấng sáng lập Dòng Tên. Ngài mang lại nhiều ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống Giáo Hội bằng sự vâng phục tuyệt đối Đức Giáo Hoàng, đối lại với sự bất tuân của những phần tử cải cách quá khích. Ngài đưa ra những nguyên tắc cho việc cải cách như sau:
BÀI 7
CÁC PHÁT MINH KHOA HỌC VỚI GIÁO HỘI TRUYỀN GIÁO
Câu 21: Anh chị cho biết, đâu là những khám phá mới trong thời kỳ Phục Hưng?
Tinh thần dân chúng Tây Phương lúc ấy rất phấn khởi hướng về những khám phá mới và về những triết thuyết nhân văn làm nổi bật giá trị con người. Những khám phá mới bao gồm: Đời sống xã hội, các phương tiện thông tin liên lạc ngày càng phát triển. Về địa lý: với việc khám phá ra Châu Mỹ và vùng Viễn Đông…; Về thiên văn với việc khám phá ra trái đất quay quanh mặt trời; Về kỹ thuật: Phát minh ra kỹ thuật in ấn, máy hơi nước, điện tín… Những phát minh này giúp các nhà tư tưởng được dễ dàng quảng bá, giúp con người tiếp xúc với những “chân trời mới”, khám phá lại những cái hay trong triết học cổ đại Hy Lạp.
Câu 22: Triết thuyết nhân văn đã đem đến những hệ lụy nào?
Triết thuyết nhân văn đã đem đến những hệ lụy này:
Câu 23: Anh chị hãy nêu đôi nét về công cuộc Truyền giáo của Giáo Hội trong thời kỳ Phục Hưng?
Những phát minh khoa học vĩ đại của thế kỷ XV-XVI đã mở đường cho một cuộc Phúc Âm hóa toàn cầu. Việc nhà hàng hải Christopher Columbus phát hiện ra Châu Mỹ (1492) khiến biên cương của Giáo Hội cũng theo đó mà mở rộng. Các nhà truyền giáo sát cánh với các nhà thám hiểm đi chinh phục đất mới. Các linh mục Dòng Biển Đức, Đa Minh và Phan-xi-cô là thừa sai tại miền đất mới và hoàn toàn xa lạ này.
Hội Thánh lúc ấy chưa đủ sức cáng đáng hết công việc truyền giáo trước một thế giới mênh mông đang mở ra, nên phải nhờ đến các vị vua Công Giáo. Hai quốc gia được kể là mạnh lúc bấy giờ là Tây Ban Nha lo bên Mỹ La-tinh và một phần của Châu Á; Bồ Đào Nha lo cho Á Châu. Ca-na-đa được truyền giáo năm 1608 do các tu sĩ Dòng Au-gút-ti-nô và Phan-xi-cô. Ấn Độ và Nhật Bản do thánh Phan-xi-cô. Trung Hoa được các tu sĩ Dòng Tên thuộc Tây Ban Nha.
Những cuộc đấu tranh kiên cường để bảo vệ quyền lợi của các thổ dân khiến các nhà truyền giáo gặp phải muôn vàn khó khăn, mất cả quyền lợi, đôi khi cả mạng sống. Nhưng nhờ đó, người ta ý thức dần về nhân quyền. Phong trào truyền giáo mở rộng và gia tăng, cũng góp phần đưa đến ý thức rằng: người Ki-tô hữu làm nên Giáo Hội.
BÀI 8
HỘI THÁNH VỚI CÁC NỀN VĂN HÓA - CÁC TRIẾT THUYẾT MỚI
Câu 24: Giáo Hội hội nhập văn hóa như thế nào?
Trong quá trình rao giảng Tin Mừng, Giáo Hội vừa phải trung tín với sứ điệp đã lãnh nhận, đồng thời vẫn không ngừng diễn tả sứ điệp đó trong những ngôn ngữ mới, những nền văn hóa và triết học mới.
Nguyên tắc truyền giáo của Giáo Hội là tự do và bác ái. Thế nên, một đàng, Giáo Hội cấm ngặt không ai được ép buộc hay dùng những mánh lới bất xứng để dụ dỗ hay lôi cuốn người ta theo Đạo; đàng khác, Giáo Hội cũng cương quyết đòi cho con người quyền tự do tôn giáo, không bị đàn áp vì những bách hại bất công.
BÀI 9
PHẨM TRẬT VÀ TỔ CHỨC TRONG HỘI THÁNH
VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG ĐỒNG
Câu 25: Đức Giáo Hoàng?
Đức Giáo Hoàng là tên dành cho vị Giám mục Rô-ma với tư cách là người kế vị thánh Phê-rô và thủ lãnh của Giáo Hội toàn cầu.
Câu 26: Đức Hồng Y?
Hồng Y là chức sắc cao cấp của Giáo Hội Công Giáo Rô-ma xếp ngay dưới Giáo Hoàng. Các Hồng Y họp thành Hồng Y đoàn. Các ngài được Giáo Hoàng chỉ định để trợ giúp và cố vấn trong việc quản trị Giáo Hội. Các ngài mặc phẩm phục màu đỏ. Các Thượng Phụ giáo chủ Đông Phương được nhận vào Hồng Y đoàn và lấy tòa thượng phụ của mình làm tước hiệu. Khi được tấn phong Hồng Y, ai chưa làm Giám mục phải được phong Giám mục trước. Các Hồng Y có quyền bầu Giáo Hoàng và hợp thành Cơ Mật Hội thường lệ hay ngoại lệ.
Câu 27: Thượng Phụ Giáo chủ?
Đây là tước hiệu có từ thế kỷ VI và được dành cho các vị Giám mục của 5 tòa thượng phụ lớn trong cộng đồng Ki-tô giáo, đó là: Rô-ma, Con-stan-ti-nô-pô-li, An-ti-ô-ki-a, A-lê-xan-dri-a và Giê-ru-sa-lem. Sau đó tước hiệu này phổ biến hơn và dùng cho các tòa quan trọng khác nữa ở Giáo Hội Đông Phương. Vị Thượng Phụ là thủ lãnh của các tín hữu thuộc về nghi lễ của ngài ở mọi nơi trên thế giới. Ngài có thẩm quyền cao cấp nhất trong Giáo Hội của mình chỉ sau Giáo Hoàng.
Câu 28: Tổng Giám mục?
Là tước hiệu dành cho vị Giám mục cai quản một hoặc nhiều giáo phận trong một giáo tỉnh vì tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, vị này chỉ có quyền tài phán trực tiếp trong giáo phận của mình. Những Tổng Giám mục gọi là “hiệu tòa” thì không có quyền tài phán trên một giáo phận thực tế nào mà chỉ nhận tước hiệu danh dự này vì lý do lịch sử hay cá nhân thôi. Tổng Giám mục chính tòa có nhiệm vụ lo cho đức tin và kỷ luật Giáo Hội được tuân giữ nghiêm chỉnh.
Trong Giáo Hội Đông Phương, đây là tước hiệu của một Giám mục có tòa quan trọng, hoặc là có tòa nằm ngoài chức thượng phụ, nên gọi là Trưởng giáo chủ.
Câu 29: Giám mục?
Giám mục là người kế vị các Tông Đồ, thường đứng đầu một giáo phận để thi hành ba nhiệm vụ (Giảng dạy, Thánh hóa và Quản trị) của Đức Ki-tô trong sự hiệp thông với thủ lĩnh Giáo Hội là Đức Giám mục Rô-ma. Các Giám mục Phó là phụ tá của Giám mục giáo phận và có quyền kế vị. Giám mục Phụ tá cũng giúp đỡ Giám mục giáo phận nhưng không có quyền kế vị.
Các Giám mục họp thành Giám mục đoàn, là toàn thể các Giám mục, hiệp thông với Giáo Hoàng, chịu trách nhiệm về đức tin và sứ mạng của Giáo Hội. Đây là chủ thể nắm quyền tối cao trọn vẹn đối với Giáo Hội phổ quát. Giám mục đoàn thi hành quyền bính ấy cách long trọng trong công đồng chung.
Ngoài Giáo Hoàng và Giám mục, còn có các vị khác như: Đại diện tông tòa, Phủ doãn tông tòa, Giám quản tông tòa. Giám quản tông tòa hay Đại diện tông tòa thường là một Giám mục được chỉ định để điều hành tạm thời một giáo phận khi Tòa Giám mục của Giáo phận ấy bị khuyết vị.
Câu 30: Giáo triều Rô-ma?
Giáo triều Rô-ma là hệ thống các cơ quan điều hành trung ương, được Giáo Hoàng trao quyền để phục vụ Va-ti-can và các Giáo Hội địa phương. Hệ thống này do các vị Hồng Y đứng đầu. Giáo triều Rô-ma gồm:
Hiện nay, Va-ti-can đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức theo cấp bậc Sứ thần, Đại sứ với trên 180 quốc gia.
Câu 31: Anh chị hãy cho biết các Công Đồng có vai trò như thế nào?
Công Đồng là một hội nghị gồm các Giám mục cùng một số bề trên của các tổ chức trong Hội Thánh chính thức nhóm họp để bàn luận và quyết định những vấn đề thuộc Giáo lý đức tin hay sinh hoạt của Giáo Hội. Công Đồng có nhiều cấp bậc khác nhau, bao gồm trong hai loại tổng quát là Công Đồng chung và Công Đồng riêng.
Công Đồng chung còn gọi là Công Đồng phổ quát hay Công Đồng đại kết. Đây là hội nghị các Giám mục, với sự góp mặt của các bề trên cao cấp trong các tổ chức tu trì, dưới sự chủ tọa của Giám mục Rô-ma hay qua các đặc sứ của ngài. Trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II, chỉ có Giám mục chính tòa mới có quyền tham dự công đồng chung. Hiện nay, mọi Giám mục đều có quyền tham dự Công Đồng vì là thành phần của Giám mục đoàn.
Công Đồng riêng là một hội nghị gồm các Giám mục của một miền đất nào đó trong Giáo Hội.
Câu 32: Anh chị hãy cho biết đâu là thẩm quyền của Công Đồng chung?
Công Đồng chung là cơ quan lập pháp và giáo huấn tối cao của Giáo Hội, vì Chúa Ki-tô đã ban quyền cho các Tông Đồ và những người kế vị các ngài để dạy dỗ và điều khiển Giáo Hội. Những Nghị quyết của Công Đồng chung có một giá trị tối cao đối với toàn thể Giáo Hội. Theo một số điều kiện đã được ấn định trong Giáo Hội, những giáo huấn này có tính “bất khả ngộ”, nghĩa là không thể sai lầm. Nghị quyết được chia thành 2 loại: 1-Nghị quyết về quy luật: ấn định những luật lệ, tập quán, nghi lễ; 2-Nghị quyết về Giáo lý: Bàn về những điểm Giáo lý gây tranh cãi, làm sáng tỏ những điểm Giáo lý còn nghi ngờ, xác định những chân lý mạc khải bị lạc giáo chối từ hoặc lên án những điểm sai lạc bằng các phán quyết “Tuyệt thông”.
Công Đồng đầu tiên của Giáo Hội được triệu tập tại Giê-ru-sa-lem với sự tham dự của các Tông Đồ để giải quyết vấn đề có nên bắt các dân ngoại khi trở lại Ki-tô giáo phải chịu phép cắt bì hay không. Kể từ đó đến nay, Giáo Hội đã có 21 Công Đồng chung (8 Công Đồng chung đầu tiên họp tại Đông Phương; 13 Công Đồng sau họp ở Tây Phương). Hầu hết các Giáo Hội ly khai Đông Phương chỉ công nhận 7 Công Đồng chung đầu tiên. Công Đồng thứ 21 là Công Đồng Va-ti-ca-nô II được diễn ra từ năm 1962-1965 do Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII triệu tập và Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI kết thúc.
BÀI 10
VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
TẠI VIỆT NAM
Câu 33: Giai đoạn phôi thai?
Tin Mừng đã đến Việt Nam vào thế kỷ XVI, do một người tên là I-ni-khu (có lẽ là một thừa sai), đã đến giảng đạo tại làng Ninh Cường và Trà Lũ thuộc tỉnh Nam Định ngày nay. Nhưng Đạo Công Giáo chỉ được truyền sang Việt Nam một cách có hệ thống và quy mô từ đầu thế kỷ XVII với các thừa sai Dòng Tên, dưới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh.
Sau 37 năm truyền giáo ở Đàng Ngoài (miền Bắc) và 50 năm truyền giáo ở Đàng Trong (miền Nam), các ngài đã để lại cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam khoảng 100 ngàn tín hữu và một đội ngũ Thầy giảng, câu trùm, là cơ sở phát triển cho giai đoạn sau.
Khuôn mặt nổi bất nhất trong giai đoạn này là linh mục A-lếch-xăng đơ Rốt (cha Đắc Lộ). Ngài là người có công trong việc hệ thống hóa và phát triển chữ quốc ngữ, là chữ Hán Nôm người Việt dùng lúc ấy, nhưng được các thừa sai đi trước tự phiên âm ra bằng mẫu tự La-tinh để dễ học và dễ nhớ. Ngài đã biên soạn và xuất bản quyển Giáo lý đầu tiên bằng tiếng Việt có tên là “Phép giảng tám ngày” và cuốn tự điển Việt-Bồ-La.
Ngoài Dòng Tên, các tập thể truyền giáo khác cũng đóng góp không nhỏ trong giai đoạn khai sinh của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam là Dòng Đa Minh, Dòng Phan-xi-cô và Hội thừa sai Pa-ri. Ngoài các nhà thừa sai, còn có các linh mục, tu sĩ Việt Nam, những người đã dâng trọn cuộc sống cho Nước Trời, cùng những người giáo dân thiện chí. Họ sẵn sàng dấn thân đem Tin Mừng của Chúa đến khắp nơi và nuôi dưỡng đời sống đức tin cho anh em mình.
Câu 34: Anh chị hãy cho biết đôi nét về Giai đoạn Tông Tòa?
Sau thời kỳ phôi thai, việc truyền giáo được các linh mục thuộc Hội Thừa sai Pa-ri đảm nhận. Ngày 09/9/1659, Tòa Thánh đã thiết lập hai giáo phận đầu tiên tại Việt Nam: Giáo phận Đàng Trong do Đức Giám mục Lambert de la Motte, Giáo phận Đàng Ngoài do Đức Giám mục Francois Pallu coi sóc.
Công Đồng đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam được tổ chức tại Phố Hiến (Hưng Yên) năm 1670 do Đức Giám mục Lambert de la Motte chủ tọa. Công Đồng đã đưa ra những quyết định quan trọng cho Giáo Hội Việt Nam lúc bấy giờ như: Phân chia giáo xứ; chọn Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo Hội Việt Nam; Ấn định việc đào tạo chủng sinh qua tổ chức Nhà Đức Chúa Trời và thành lập Dòng Mến Thánh Giá.
Câu 35: Anh chị hãy cho biết đôi nét về Giai đoạn trưởng thành?
Ngày 24/11/1960, Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành của Giáo Hội sau bốn thế kỷ đón nhận Tin Mừng.
Ngày 19/6/1988 Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã suy tôn lên bậc Hiển thánh 117 vị tử đạo tại Việt Nam.
Câu 36: Anh chị hãy cho biết đôi nét về hiện tình Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam?
Hiện nay, Giáo Hội tại Việt Nam có 3 Giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài Gòn với 27 giáo phận. Theo số liệu điều tra dân số chính thức của Nhà nước năm 2019, Công Giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất tại Việt Nam, với 5,9 triệu người, chiếm khoảng 44,6% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng dân số cả nước. Theo thông tin từ trang Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam, tính đến năm 2021, Công giáo tại Việt Nam có 47 Giám mục, hơn 6000 linh mục; khoảng 200 dòng tu, với hơn 31.000 nam nữ tu sĩ, trên 7 triệu tín hữu Công giáo, hơn 10.000 cơ sở thờ tự (tính đến năm 2010). Theo thông tin từ Bản Tổng kết Tiền Thượng Hội đồng Giám mục công bố vào tháng 8 năm 2022, số giáo dân là 7.294.713 người, tỉ lệ 7,21% dân số Việt Nam.
Các Dòng tu đóng góp một vài trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển Giáo Hội. Ngoài các Dòng tu từ nước ngoài đến truyền giáo, Dòng nữ đầu tiên được thành lập tại Việt Nam là các Nữ tu Mến Thánh Giá: 1670 tại miền Bắc và 1671 tại miền Nam.
Nhờ sự nỗ lực hội nhập văn hóa, Giáo Hội tại Việt Nam vừa có yếu tố Tây Phương lại vừa có yếu tố văn hóa bản địa. Lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam là quá trình gặp gỡ và đấu tranh của cuộc hội nhập này. Tất cả những gì của nền văn hóa Việt Nam không làm sai lạc sự nguyên tuyền chân lý đức tin và không đi ngược lại những giá trị luân lý Ki-tô giáo đều có thể chấp nhận.
BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về Giáo Phận Thái Bình
Đang online: 80 | Tổng lượt truy cập: 4,605,762