“Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra,
không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết”.
(Lc 12,2)
BÀI ĐỌC I (năm II): Ep 1, 11-14
“Chúng tôi trước kia đã trông cậy vào Ðức Kitô, và anh em được ghi dấu Thánh Thần”.
Trích thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, trong Ðức Kitô, chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, và anh em (là con cái Israel) cũng được tiền định theo ý định của Ngài là Ðấng tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài, để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ trước kia đã trông cậy vào Ðức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa, sau khi anh em đã nghe lời chân thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin và được ghi dấu Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp chúng ta, để chúng ta được ơn cứu chuộc, được ca ngợi vinh quang Ngài.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 32, 1-2. 4-5. 12-13
Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình! (c. 12b).
Xướng: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.
Xướng: Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực; địa cầu đầy ân sủng của Chúa.
Xướng: Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Từ trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta.
Tin mừng: Lc 12, 1-7
1 Trong lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ: “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. 2 Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3 Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày ; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.
4 “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. 5 Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy. 6 Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không ? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7 Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
Sứ điệp: Chúng ta có những nỗi băn khoăn lo lắng cho ngày hôm nay, và cũng có những âu lo sợ hãi cho ngày mai, Thiên Chúa biết rõ tất cả. Ngài sẽ trợ giúp chúng ta vượt qua những trở ngại ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trước mặt Chúa, con không phải chỉ là con số vô danh, mất hút trong số sáu tỷ người trên thế giới, nhưng con là một cá nhân riêng biệt, được Chúa biết đến, được Chúa quan tâm và yêu thương vô vàn. Điều này làm con an tâm cho số phận mình và luôn tin tưởng phó thác nơi lòng thương yêu quan phòng của Chúa. Chúa chăm sóc cả đến những tạo vật nhỏ bé nhất. Chúa nhớ đến những con chim bé bỏng. Chúa quan tâm đến những vật rất tầm thường. Chúa để ý đến mọi sự…, huống chi là con. Lạy Chúa, con xin cảm tạ lòng thương vô biên Chúa.
Lạy Chúa, với lòng tin tưởng ấy, con hoàn toàn phó thác nơi Chúa cuộc đời con. Bởi vì khi sống điều Chúa dạy, con sẽ phải đối diện với bao thử thách, con sẽ gặp những khó khăn từ chính bản thân mình. Những vui buồn sướng khổ có thể dẫn con lạc hướng. Con cũng gặp những đe dọa từ phía những người khác. Con bị cản ngăn sống Lời Chúa, con bị chê cười khi thực hiện điều Chúa dạy. Nhưng Chúa ơi, con luôn đặt mình trước mặt Chúa để chỉ sống theo ý Chúa mà thôi. Con không sợ những đe dọa kia, con cũng không sợ người khác, nhưng con chỉ kính sợ một mình Chúa là Đấng xét xử con.
Lạy Chúa, con tin rằng Chúa thương yêu con cách riêng tư. Xin Chúa giúp con can đảm thực hành điều Chúa dạy như một đáp trả tình thương ấy. Amen.
Ghi nhớ: “Mọi sợi tóc trên đều các con cũng đã được đếm cả rồi”.
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Câu 1-3: Đoạn trước (11,37-54) đã cho ta thấy Chúa Giêsu bị nhóm pharisêu và nhóm luật sĩ bắt lỗi trong một bữa ăn. Câu chuyện đó khiến Ngài muốn cảnh giác các môn đệ mình hai điều. Điều thứ nhất là hãy coi chừng thói giả hình của người pharisêu: một mặt là đừng giả hình như họ, mặt khác các môn đệ hãy đặt mình vào hàng “các ngôn sứ và các tông đồ” (c 49) để lo rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa và sẵn sàng chịu bách hại vì sứ mạng đó.
- “Men pharisêu”: Chữ “men” được Chúa Giêsu dùng ở đây muốn nói đến một thứ ẩn giấu trong bột để từ từ làm cho bột bị hư đi không còn là bột tinh tuyền nữa. Thái độ giả hình của người biệt phái cũng giống như vậy vì nó có thể lây lan làm hại nhiều người khác. Các môn đệ hãy coi chừng đừng để mình bị lây nhiễm thói xấu đó vì nếu bị nhiễm thì đến phiên họ cũng sẽ lây nhiễm sang nhiều người khác trong Giáo Hội.
- Không giả hình tức là ta như thế nào thì tỏ ra thế ấy, bởi vì “Không có gì che dấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết”. Chú ý, câu này cũng được Mt ghi lại (Mt 10,27) nhưng trong một văn mạch khác nên mang ý nghĩa khác: Trong Mt nó muốn nói đến việc rao giảng Tin Mừng.
- Chúa Giêsu quảng diễn thêm ý tưởng trên bằng hai kiểu nói nữa: “Tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày ; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín sẽ được công bố trên mái nhà”. Nên nhớ mái nhà ở do thái là nóc bằng nên cũng là nơi người ta thường lên để trò chuyện và thông báo tin tức cho nhau.
2. Câu 4-7: Điều thứ hai Ngài khuyên là đừng sợ sự thù nghịch của thế gian đối với người tông đồ của Chúa. Ngài đưa nhiều lý do để thuyết phục các môn đệ:
- Lý do thứ nhất là các quan quyền thế gian cùng lắm chỉ giết được thân xác của ta chứ không giết được sự sống thật của ta là điều thuộc về quyền độc hữu của Thiên Chúa. Bởi vậy nên sợ Thiên Chúa hơn.
- Không những đừng sợ các quan quyền thế gian, mà còn phải phó thác vào Thiên Chúa quan phòng: Đấng luôn chăm sóc từng con chim sẻ và từng sợi tóc trên đầu chúng ta lẽ nào lại không chăm sóc những người làm sứ mạng Ngài giao hay sao! (Về chi tiết chim sẻ: Mt 10,29 ghi hai con chim sẻ bán được một xu. Ở đây Lc ghi năm con bán một xu. Lc muốn nhấn mạnh hơn nữa ý tưởng Thiên Chúa chăm sóc những vật rất tầm thường).
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Đừng sợ: “Chúa Giêsu đưa ra lời trấn an này vào giữa lúc các môn đệ Ngài nhận ra sự chống đối của biệt phái đối với Chúa Giêsu. Theo Chúa Giêsu Kitô, người môn đệ đồng chịu số phận chống đối. Đó là chuyện đương nhiên, không thể có con đường nào khác. Ngay trong chính bản thân, những xâu xé, giằng co cũng là chuyện không thể tránh được. Thế nhưng Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy an tâm, bởi vì Thiên Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Ngài không cất khỏi chúng ta những chống đối, đau khổ và sự chết. Ngài chỉ cho chúng ta thấy đâu là ý nghĩa của đau khổ, đâu là cùng đích cuộc đời” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Chúa quan phòng: “Bài phúc âm hôm nay cho thấy Thiên Chúa quan phòng mỗi người con cái Chúa. Chúa bảo đảm rằng Chúa lo lắng cho từng con chim trời không con nào chết đói, từng bông hoa huệ nay còn mai mất mà có được màu trắng vương giả, thì con người quí giá ngàn trùng, càng được Chúa bảo trợ...” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”).
3. Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy ? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con ? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” (Trích “Món quà giáng sinh”)
Hãy can đảm làm chứng cho Chúa (Lc 12,1-7)
ĐTC Phanxicô cho rằng: thứ vi rút đạo đức giả này tựa như con rắn, cứ trườn bò luồn lách, không rõ ràng minh bạch, từ lừa dối này sang lừa dối khác qua lời đường mật và dáng mạo bên ngoài. Thứ vi rút đạo đức giả này vừa tàn phá nhân cách của mọi người, kể cả Kitô hữu, vừa lây nhiễm rất nhanh sang nhiều người. Tuy nhiên, như vị lương y thần linh, Chúa Giêsu khuyên nhủ ta tránh xa thứ “men biệt phái” đó, ngăn ngừa lây nhiễm thứ vi rút đạo đức giả đó, bằng cách tin tưởng và đối diện với Chúa hằng ngày (5 phút mỗi ngày).
Chúa khuyên chúng ta hãy an tâm, bởi vì Thiên Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Ngài không cất khỏi chúng ta những chống đối, đau khổ và sự chết. Ngài chỉ cho chúng ta thấy đâu là ý nghĩa của đau khổ, đâu là cùng đích cuộc đời.
Sự tin tưởng vào Chúa quan phòng không có tinh cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho (Hiền Lâm).
Khi mới lên Tổng Giám mục giáo phận San Salvador, Đức cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi cái nhìn của mình.
Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chính toà để tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng làm việc để lắng nghe ngài.
Ngài bị đặt vào trong tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn cho riêng mình. Ngài nói: “Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Nhưng tôi sẽ ở lại với dân tôi”.
Và ngài đã bị chết dưới làn đạn của kẻ thù vào tháng ba năm 1980 đang lúc ngài dâng thánh lễ.
Câu chuyện
Trong Cựu ước, đền thờ được dành riêng đặc biệt cho Thiên Chúa. Thiên Chúa thường áp dụng những hình phạt rất nặng đối với những ai phạm đến đền thờ. Hai đứa con trai của thầy cả Hêli, vì không chịu sống nghiêm trang xứng đáng trong đền thờ, đã bị Chúa phạt nặng.
Trong Tân ước, ngày kia vào đền thờ, Chúa Giêsu nổi giận vì thấy một số người tổ chức buôn bán và đổi tiền. Ngài thịnh nộ, đuổi họ ra hết, và tuyên bố nhà Chúa là nhà cầu nguyện, chứ không phải là hang trộm cướp.
Suy niệm
Đức Giêsu nhìn thấy đền thờ, nhà Cha, nơi cầu nguyện trở nên địa điểm phường của buôn bán, Ngài bừng bừng nổi giận. Sự kiện thanh tẩy đền thờ, được cả bốn Tin Mừng ghi nhận (x. Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48; Ga 2,13-25).
Dân chúng buôn bán, lạm dụng đền thờ của Thiên Chúa nên đã làm ô uế đền thờ như ngôn sứ Giêrêmia đã nhìn thấy trước và tư vấn: “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao ?” (Gr 7,11). Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ và thực hiện lời loan báo của ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21), khi “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Đền Thờ, nhà Chúa Cha phải được thanh tẩy xứng đáng để trả lại đúng vẻ nguyên tuyền của đền thờ. Ngài đưa về sự thánh thiện đạo thật, đền thờ thật như Chúa phán qua ngôn sứ Isaia: “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7).
Thật thế, như Chúa Giêsu dạy đường đi của đạo là yêu thương, đền thờ là nơi đón tiếp anh chị em tín hữu, không phân biệt màu da chủng tộc.
Xin Chúa tiếp tục thanh tẩy các ngôi thánh đường - nhà Chúa, nhà chung, thành nhà yêu thương đùm bọc lẫn nhau và xứng đáng để dâng lễ tế: Đền thờ Thiên Chúa sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền bằng tình yêu thương như Chúa đã phán qua lời ngôn sứ Hôsê: “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ” (Hs 6,6).
Ý lực sống
“Làm sao đền thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được ? Vì chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, như lời Người phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ta” (2Cr 6,16).
Nguồn: tgpsaigon.net
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về Giáo Phận Thái Bình
Đang online: 148 | Tổng lượt truy cập: 4,039,387