DÀN Ý VÀ SUY NIỆM TIN MỪNG
Lm Giuse M Trần Xuân Chiêu
Phúc Âm (Lc.4,21-30)
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse sao?” Và Người nói với họ: “Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình; điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông”. Người nói tiếp: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ: dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người
DÂNG ĐỨC GIÊSU VÀO ĐỀN THỜ
1. Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu
- Ngày 2/2, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria dâng Trẻ Giêsu vào Đền thờ, làm lễ Thanh Tẩy sau sinh theo Luật Môsê, đồng thời xác minh con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Đức Maria và Chúa Giêsu không buộc phải theo nghi thức này, nhưng để nêu gương khiêm hạ, hầu cứu con người, nên lễ này còn được gọi là Lễ Thanh Tẩy.
- Ngày Lễ hôm nay còn mang nhiều ý nghĩa: Đó là việc Thiên Chúa gặp dân Người: Simêon, Anna đã tới đền thờ nhận ra Con Trẻ, rồi đi loan báo cho người khác. Đồng thời Đức Giêsu được Chúa Thánh Thần công bố là vinh quang Israen và là ánh sáng soi đường cho muôn dân.
2. Ý nghĩa Lễ Nến
- Đó là ánh sáng Đức Kitô. Những cây nến làm phép và thắp sáng ngày lễ, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang Chúa Giêsu. Đức Giêsu là Ánh Sáng từ trời để thắp sáng cho trần gian, như lời ông già Simêon: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32).
- Đó là ánh sáng của con người. Những cây nến cháy sáng trên tay cụ già Simêon, thắp sáng cây nến con người. Mỗi người là ánh sáng, ánh sáng trong lòng mình và mọi người. Tiếc thay, nhân loại đã ánh sáng đó chiếu soi hơn 2000 năm, mà vẫn còn nhiều người chưa đón nhận.
- Đó là ánh sáng Kitô hữu. Khi Rửa tội, Kitô hữu được trao cây nến sáng: “Hãy nhận ánh sáng Chúa Kitô…” Kitô hữu hãy làm cho ánh sáng ấy cháy lên: “Các con là ánh sáng thế gian. Thành xây trên núi, không thể giấu.” ‘Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.’
3. Ý nghĩa việc dâng Con
- Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ nói lên tình yêu Thiên Chúa với con người. Con cái là hoa quả phúc lộc Trời ban. Bố mẹ chỉ có công sinh thành nuôi dưỡng, không tạo thành ra con cái. Sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác của con đều là do Thiên Chúa sáng tạo. Chúa Giêsu là quà tặng cao quí Chúa Cha dành cho nhân loại.
- Truyện: Bà nội mỗi tối, lúc gia đình đọc kinh xong, bà còn ngồi lần thêm một tràng hạt. Tôi hỏi bà, bà đáp: Bà lần chuỗi cầu nguyện cho các cha. Bà tôi không biết đọc biết viết, nhưng chính những người bà, người mẹ đó, đã vun trồng hát giống ơn thiên triệu trong lòng con cái(St).
- Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ, loan báo Hy Tế Cứu Chuộc. Đấng tối cao giờ đây được trao đổi làm của lễ đơn sơ bằng ‘cặp bồ câu non.’ Chúa nhập thể chính là việc nối kết nhân loại với Chúa Cha. Đức Giêsu được dâng trong đền thánh là hình bóng về hiến lễ mà Ngài sẽ dâng chính Mình trên đồi Canvê.
- Lễ Dâng Chúa Giêsu dạy hãy yêu thương nhau. Các việc giáo dục, gương sáng, tiền ăn học, là quan trọng, nhưng việc yêu thương nhau là quan trọng nhất để duy trì mái ấm gia đình. Tình yêu thương còn phải được nhân rộng đến những người xung quanh, để thế giới an bình.
- Lễ Dâng Chúa Giêsu dạy phải quan tâm con cái. Thân xác bệnh tật, ma túy, say xỉn, tai nạn; rồi những cạm bẫy về tâm hồn như: Phim ảnh, sách vở, bạn bè xấu, luôn làm giới trẻ sa bẫy. Hãy đem con cái vào Nhà thờ để phó thác cho Chúa, giúp chúng vượt qua cạm bẫy thế gian và ma quỉ
- Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người đã trở nên con cái Thiên Chúa, và tự hào được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy cố gắng sống xứng đáng với vinh dự cao quí này.
Suy Niệm
Bài Phúc Âm tiếp nối câu truyện diễn ra khi Đức Giê-su về quê hương và đọc sách Thánh tại hội đường Na-da-ret. Không nghi ngờ gì cả, mọi người đều ngạc nhiên bỡ ngỡ, thán phục những lời hay ý đẹp và ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh nói về chính Đức Giê-su. Tuy nhiên họ chợt nhớ lại, Người cũng xuất thân từ thân phận nghèo khổ, hoàn cảnh như họ và thay vì tôn kính, họ đã coi thường Người. Họ còn lợi dụng tình quê hương, mà thách thức Người làm phép lạ, như là quyền lợi của họ được hưởng. Đức Giê-su đã thẳng thắn bác bỏ bằng một bài học chí lí, đến nỗi họ căm phẫn xua đuổi Người và tìm cách giết Người.
Người ta đặt vấn đề, liệu những đòi hỏi của người It-ra-en có sai không, vì họ là những người họ hàng với Đức Giêsu? Tại sao Người không làm phép lạ tại quê hương? Tại sao người đồng hương từ chối Chúa, trong khi người ngoài lại tiếp đón Người? Phải chăng người Do Thái quá cứng nhắc? Và liệu câu nói: “Không tiên tri nào được tôn trọng nơi quê hương mình” còn đúng với ngày nay nữa không?
1. Thân phận Tiên tri
Người Việt : người đồng hươngNhững hành xử của
Đức Giê-su khẳng định vai trò của Người: Sau khi đọc sách Thánh, chỉ nghe qua câu kết luận nhẹ nhàng và dứt khoát: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”(Lc 4,21), không ai có thể hiểu khác được, ngoài việc kết luận đoạn Kinh Thánh này nói về chính Người. Isaia đã nói về Đấng Thiên Sai với các dấu chỉ: Rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa lành tật nguyền, xua trừ quỷ ám, cho kẻ đui được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được… Đức Ki-tô đã và đang rao giảng khắp nơi trong kinh thành, mọi người chứng kiến lời Người nói đi đôi với việc làm, chắc chắn họ phải nhận ra những dấu chỉ rất phù hợp về Đấng Cứu Thế, mà I-sa-ia và các Ngôn sứ đã loan báo.
Dẫu vậy, người It-ra-en vẫn không nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế. Một mâu thuẫn có thực, một sự thật hết sức vô lí, phũ phàng. Người ta có thể hiểu được lý do tại sao người Do Thái ngỡ ngàng thán phục Chúa, mà không công nhận việc Chúa Giê-su đã làm, đó là sự tự hào và tính ích kỉ của người đồng hương Chúa. Người Do Thái thấy Chúa làm phép lạ, ăn nói giỏi giang, họ tự hào, họ vui mừng, họ thán phục, nhưng lòng kiêu hãnh của họ đã không vượt qua bức tường chắn ích kỉ: Họ muốn Chúa làm phép lạ tại quê hương họ, phải biểu diễn những điều kinh dị cho họ thưởng ngoạn, họ phải là người ưu tiên trước những người khác. Thay vì tự hào là người bà con, họ lại biến niềm kiêu hãnh thành cái bụng ích kỉ: Họ muốn họ nổi bật, giầu có, họ dành quyền lợi cá nhân.
2. Thái độ của Đức Giêsu
Giống như các Tiên tri trước đây, Đức Giê-su cũng chịu cảnh bị bỏ rơi, giết hại. Đứng trước sự thực phũ phàng đó, Đức Giê-su không hề lẩn tránh, Người nói: “Không Tiên tri nào được tôn trọng ở quê hương.” Người ta cũng dễ hiểu điều này qua những cách cư xử của Đức Giê-su:
Trước hết Đức Giê-su muốn duy trì quyền tự do khi ban ơn. Các ngôn sứ như Ê-li-a và Ê-li-sa đã từng chia sẻ và giúp đỡ người ngoại giáo không phải là người cùng huyết tộc. Đức Ki-tô cũng dành quyền tự do lựa chọn để ban cho ai theo ý của Chúa, không phải chịu sự thách thức của ai, dù là những người đồng hương, Người không bị chi phối bởi thứ tình cảm trần tục.
Đức Ki-tô đến để cứu độ hết thảy mọi người: Mặc dù Người luôn dành ưu tiên cho người It-ra-en, nhưng cũng phải có điều kiện là phải kính cẩn chấp nhận thì mới được hưởng ơn đó. Người phanh phui tâm địa của họ qua câu tục ngữ: “Thầy lang ơi hãy chữa lấy chính mình.” Nhiệm vụ Chúa đến là đem Tin Mừng cho hết thảy mọi người trên thế gian này, không riêng gì người Do Thái.
3. Thái độ của mỗi người
Trước hết phải can đảm nói lên sự thật: Đức Giê-su luôn mạnh dạn bảo vệ chân lí. Trước thái độ ngạo mạn của người It-ra-en, Chúa dẫn lại nạn đói thời E-li-a và E-li-sa, trong khi dân ngoại được hưởng phép lạ, thì người Do Thái không được đoái hoài, để cảnh cáo những người đồng hương. Chúa Kitô bị người It-ra-en tống ra ngoài và có ý định xô Người xuống vực để giết đi. Can đảm nói lên sự thật vẫn rất cần thiết cho sứ vụ tông đồ, nhất là trong thời đại ngày nay. Sẽ rất khó khăn và phức tạp để nói sự thật, nó luôn kèm theo sự hy sinh, đôi khi cả tính mạng; nhưng đây là đặc tính quan trọng của người môn đệ Chúa Ki-tô.
Con người phải biết chấp nhận sự thật: Người It-ra-en dù biết rõ Đức Ki-tô đã và đang làm những gì mà họ trông đợi, bởi họ quá rõ những dấu hiệu đang diễn ra, đúng với những dấu chỉ trong Cựu Ước; vậy mà họ cố chấp, họ đóng cửa lòng vì tự hào và ích kỉ. Từ chối hay đón nhận ơn Chúa là quyền tự do của con người. Nhân loại có thể phê phán người Do Thái sao cố chấp đến vậy? Nhưng nếu họ cũng sống trong giai đoạn và ở hoàn cảnh đó thì thế nào? Nhìn vào cơ cấu của Giáo hội với biết bao thử thách của cuộc sống và sự phát triển của xã hội ngày nay: những cạnh tranh về tài chính, về quyền lực, về tổ chức, những mâu thuẫn giữa lời nói và hành động, người ta không muốn chấp nhận cái yếu, cái sai, cái chưa được của con người trong Giáo hội. Họ không nhìn bản chất của Giáo hội là do Đức Ki-tô thiết lập, gồm những con người trần tục. Họ bị đóng băng vào cái nhìn định kiến “Con ông thợ mộc Giu-se.”
Lạy Chúa, những dấu lạ là biểu hiện quyền của Thiên Chúa, nhưng chắc chắn Người không muốn quá nhiều ngoại lệ, quá kì diệu; Người muốn chúng con ra đi, rao giảng, chữa lành vết thương và chấp nhận hy sinh. Mọi người được gọi là Ngôn sứ, là Tông đồ, đồng thời cũng được gọi phải thực hiện những gì Chúa Kitô muốn và thực hành trong cuộc sống của mình.
Lm Giuse M Trần Xuân Chiêu
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về Giáo Phận Thái Bình
Đang online: 44 | Tổng lượt truy cập: 4,818,976