Đức Thánh Cha dâng Thánh Lễ phong thánh cho 7 Chân phước (CN 19/10)

  • 20/10/2025
  • Sáng Chúa Nhật ngày 19/10, Đức Thánh Cha đã dâng Thánh Lễ Chúa Nhật 29 thường niên, và phong thánh cho 7 chân phước: hai chân phước tử đạo Ignazio Maloyan và Peter To Rot, và các chân phước Vincenza Maria Poloni, Maria Troncatti, José Gregorio Hernández Cisneros, và Bartolo Longo.

    Bài giảng của Đức Thánh Cha

    Anh chị em thân mến,

    Câu hỏi kết thúc đoạn Tin Mừng vừa được công bố mở ra cho chúng ta hướng suy niệm hôm nay: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18,8). Câu hỏi ấy cho ta thấy điều quý giá nhất trước mắt Chúa: đó là đức tin, nghĩa là mối dây liên kết yêu thương giữa Thiên Chúa và con người. Chính hôm nay, trước mắt chúng ta là bảy chứng nhân, những vị tân hiển thánh, những người đã – nhờ ơn Chúa – giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng; hơn thế nữa, các ngài trở nên chính những ngọn đèn, có khả năng chiếu tỏa ánh sáng của Đức Kitô.

    So với bao của cải vật chất hay giá trị văn hóa, khoa học và nghệ thuật, thì đức tin vượt trội, không phải vì những điều kia không đáng, nhưng vì nếu không có đức tin, chúng mất đi ý nghĩa. Mối tương quan với Thiên Chúa là điều hệ trọng bậc nhất, vì Người đã tạo dựng mọi sự từ hư vô, và cũng cứu vớt tất cả những gì sẽ kết thúc trong thời gian khỏi hư vô. Một thế giới không có đức tin sẽ là một thế giới đầy những người con sống mà không có Cha, tức là những thụ tạo không có ơn cứu độ.

    Vì thế, Đức Giêsu – Con Thiên Chúa làm người – đã tự hỏi về đức tin: “Nếu đức tin biến mất khỏi thế gian, điều gì sẽ xảy ra?” Trời đất vẫn còn đó, nhưng trong lòng con người sẽ không còn hy vọng; tự do của mọi người sẽ bị cái chết đánh bại; và khát vọng sống của chúng ta sẽ rơi vào hư vô. Không có đức tin vào Thiên Chúa, chúng ta không thể hy vọng được cứu độ.

    Vâng, câu hỏi của Chúa Giêsu khiến chúng ta xao xuyến, nếu chúng ta quên rằng chính Chúa Giêsu là Đấng đặt ra câu hỏi ấy. Vì lời của Chúa luôn luôn là Tin Mừng, nghĩa là loan báo niềm vui về ơn cứu độ. Ơn cứu độ này chính là món quà sự sống đời đời, chúng ta lãnh nhận từ Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

    Anh chị em thân mến,
    chính vì thế mà Chúa Kitô nói với các môn đệ về “sự cần thiết phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1): như chúng ta không thể ngừng thở, thì cũng không thể ngừng cầu nguyện! Như hơi thở duy trì sự sống thể xác, cầu nguyện duy trì sự sống linh hồn; thật vậy, đức tin biểu lộ qua cầu nguyện, và lời cầu nguyện đích thực được nuôi dưỡng bởi đức tin.

    Chúa Giêsu minh họa điều ấy qua một dụ ngôn: Một vị quan toà không lắng nghe những lời khẩn cầu của một người bà góa, nhưng sự kiên trì của bà cuối cùng khiến ông phải hành động. Thoạt nhìn, lòng bền chí ấy là một gương sáng về niềm hy vọng, nhất là trong thời gian thử thách và đau khổ. Nhưng sự kiên trì của người phụ nữ và thái độ miễn cưỡng của vị quan toà lại mở đường cho câu hỏi thách thức của Chúa Giêsu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18,7).

    Chúng ta hãy để những lời này vang vọng trong lương tâm: Chúa đang hỏi chúng ta có tin rằng Thiên Chúa là Đấng xét xử công minh cho mọi người không. Chúa Con hỏi chúng ta có tin rằng Chúa Cha luôn muốn điều tốt lành cho chúng ta và ơn cứu độ cho mọi người không. Ở đây, có hai cám dỗ thử thách đức tin:
    – Thứ nhất, là vì sự lộng hành của cái xấu, khiến người ta nghĩ rằng Thiên Chúa không nghe tiếng kêu than của kẻ bị áp bức, không xót thương nỗi đau của người vô tội.
    – Thứ hai, là đòi buộc Thiên Chúa hành động theo ý mình: khi ấy, lời cầu nguyện biến thành mệnh lệnh yêu cầu Thiên Chúa, dạy Người phải làm thế nào để tỏ ra công bằng và hiệu quả.

    Chính Chúa Giêsu giải thoát chúng ta khỏi cả hai cám dỗ ấy. Người là chứng nhân hoàn hảo của lòng tín thác hiếu thảo. Người là Đấng vô tội, nhưng trong cuộc khổ nạn, đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (x. Lc 22,42). Đây chính là những lời Người dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha. Dù bất cứ điều gì xảy ra, Đức Giêsu phó mình cho Chúa Cha như người con, vì thế chúng ta – như anh chị em trong danh Người – cùng tuyên xưng: “Lạy Chúa, là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, ở mọi nơi và mọi lúc, chúng con cảm tạ Chúa nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con” (Sách Lễ Rôma, Kinh Tiền Tụng II).

    Lời cầu nguyện của Hội Thánh nhắc ta rằng Thiên Chúa thực thi công lý cho mọi người, bằng cách hiến dâng chính sự sống của Người cho tất cả. Do đó, khi chúng ta kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa ở đâu?”, thì lời kêu ấy trở thành lời cầu nguyện, và chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa đang hiện diện nơi người vô tội chịu đau khổ. Thập giá của Đức Kitô mạc khải sự công chính của Thiên Chúa, và sự công chính của Thiên Chúa chính là lòng tha thứ: Người thấy sự dữ và cứu chuộc nó bằng cách mang lấy trên mình.

    Khi chúng ta bị đóng đinh bởi đau khổ và bạo lực, bởi hận thù và chiến tranh, Đức Kitô đã ở đó rồi, chịu đóng đinh vì chúng ta và cùng với chúng ta. Không có tiếng khóc nào mà Thiên Chúa không an ủi; không có giọt nước mắt nào xa khỏi trái tim Người. Chúa lắng nghe chúng ta, ôm lấy chúng ta như chúng ta đang là, để biến đổi chúng ta nên giống Người. Còn ai từ chối lòng thương xót của Thiên Chúa thì cũng không thể có lòng thương xót đối với tha nhân; ai không đón nhận bình an như một hồng ân, thì cũng không thể trao ban bình an.

    Anh chị em thân mến,
    giờ đây chúng ta hiểu rằng câu hỏi của Chúa Giêsu là lời mời gọi mạnh mẽ về niềm hy vọng và hành động: Khi Con Người đến, Người sẽ còn thấy niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa nữa chăng? Chính đức tin này nâng đỡ nỗ lực của chúng ta cho công lý, vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa cứu độ thế gian bằng tình yêu, và giải thoát ta khỏi định mệnh bi quan.

    Vậy, chúng ta hãy tự hỏi: Khi nghe tiếng kêu của những người lâm cảnh khốn cùng, chúng ta có là chứng nhân của tình yêu Chúa Cha, như chính Đức Kitô đã là chứng nhân cho mọi người không? Người là Đấng khiêm nhường mời gọi kẻ kiêu ngạo hoán cải; là Đấng công chính làm cho chúng ta nên công chính — điều mà các vị tân hiển thánh hôm nay đã làm chứng. Các ngài không phải là những anh hùng hay hiệp sĩ của một lý tưởng trần thế, nhưng là những người nam nữ đích thực.

    Những bạn hữu trung tín này của Đức Kitô chịu tử đạo vì đức tin, như Đức cha Ignazio Choukrallah Maloyan và giáo lý viên Phêrô To Rot;
    – là nhà truyền giáo và loan báo Tin Mừng, như nữ tu Maria Troncatti;
    – là những đấng sáng lập đầy đặc sủng, như nữ tu Vincenza Maria Poloni và nữ tu Carmen Rendiles Martínez;
    – là những người thấm đẫm lòng sùng kính, trở nên ân nhân của nhân loại, như Bartolo Longo và José Gregorio Hernández Cisneros.

    Xin cho lời chuyển cầu của các ngài nâng đỡ chúng ta trong thử thách, và gương sáng của các ngài khơi dậy trong chúng ta ơn gọi chung là nên thánh. Khi chúng ta còn đang lữ hành trên đường tiến về quê trời, chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng, vững vàng trong điều đã học được và đã tin chắc (x. 2Tm 3,14). Đức tin trên mặt đất chính là niềm hy vọng hướng về trời cao.

    ----

    Vào cuối Thánh Lễ, trước khi ban phép lành cuối lễ, Đức Thánh Cha gởi lời chào đến các Hồng y, Thượng phụ và Giám mục hiện diện và ngài cũng bày tỏ lòng biết ơn đến Tổng thống Cộng hòa Ý và Tổng thống Li Băng, cùng các phái đoàn chính thức, đặc biệt là của Armenia và Venezuela. Ngài cũng chào đón các nữ tu thuộc những Dòng do các Đấng sáng lập hôm nay được phong hiển thánh, cùng các cộng đoàn và hiệp hội khác được linh hứng bởi đoàn sủng của các vị tân hiển thánh.

    Đức Thánh Cha cũng nhắc rằng “Hôm nay là Ngày Thế giới Truyền giáo. Hội Thánh mang bản chất truyền giáo, nhưng hôm nay chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho những người nam nữ đã từ bỏ mọi sự để ra đi loan báo Tin Mừng cho những ai chưa biết Chúa. Họ là những nhà truyền giáo gieo niềm hy vọng giữa muôn dân. Xin Chúa chúc lành cho họ!”

    Đức Thánh Cha cũng xin Đức Mẹ cầu bầu cho hoà bình ở Myanmar, Thánh Địa, Ucraina và ở những nơi khác còn đang chiến tranh. Xin Thiên Chúa ban cho tất cả những người có trách nhiệm ơn khôn ngoan và kiên trì, để họ tiến bước trong việc tìm kiếm một nền hòa bình công bằng và bền vững.

    Cuối cùng, Đức Thánh Cha đã cùng đọc Kinh Truyền Tin với cộng đoàn tín hữu và ban phép lành cuối lễ.

    Nguồn: Vatican News

    Bài viết liên quan